Thực tiễn cách mạng Việt Nam góp phần bác bỏ sự xuyên tạc, phủ nhận giá trị của Cách mạng Tháng Mười Nga
Một
trong những giá trị to lớn, có ý nghĩa thời đại mà Cách mạng Tháng Mười Nga để
lại là mở ra thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm
vi toàn thế giới. Giá trị đó tồn tại mãi với thời gian, nhưng cũng đứng trước
nhiều mưu toan xuyên tạc, phủ nhận của các thế lực thù địch. Mặc dù vậy, những
thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của cách mạng Việt Nam là thực tiễn sinh động,
góp phần bác bỏ mọi xuyên tạc, phủ nhận giá trị của Cách mạng Tháng Mười.
Đánh
giá ý nghĩa và giá trị to lớn của Cách mạng Tháng Mười Nga, Chủ tịch Hồ Chí
Minh khẳng định: “Cách mạng Tháng Mười mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc
và cả loài người, mở đầu một thời đại mới trong lịch sử, thời đại quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới”1. Ảnh hưởng của Cách mạng
Tháng Mười đã cổ vũ hàng triệu triệu người bị áp bức, bóc lột trên thế giới
vùng lên đấu tranh giành độc lập, tự do và mưu cầu hạnh phúc, dẫn tới thắng lợi
của phong trào giải phóng dân tộc ở nhiều nước trên các lục địa Á, Phi, Mỹ
La-tinh và sự ra đời của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới trong thế kỷ XX.
Tuy
nhiên, sự kiện Liên Xô tan rã vào cuối thế kỷ trước đã được các thế lực thù địch,
cơ hội chính trị tận dụng để ra sức xuyên tạc, phủ nhận ý nghĩa và giá trị của
Cuộc Cách mạng này; qua đó, phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của các
dân tộc. Họ cho rằng: “Sự sụp đổ chủ nghĩa xã hội tại cái nôi của Cách mạng
Tháng Mười là tất yếu, chứng tỏ sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
là sai lầm, ảo tưởng”; và do đó, “các dân tộc cần nói “không” với con đường xây
dựng chủ nghĩa xã hội” (!). Đối với Việt Nam, họ khuyến cáo chúng ta “không nên
định hướng xã hội chủ nghĩa, bởi đó là con đường không có tương lai” (!). Thế
nhưng, thực tiễn lịch sử và hiện tại, trong đó có thực tiễn của cách mạng Việt
Nam đã bác bỏ sự xuyên tạc, phủ nhận đó.
Nói
về sự tan rã của Liên Xô, chúng ta coi đó là một tổn thất to lớn của phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế, nhưng không phải là tất yếu. Nguyên nhân chính,
trực tiếp, có tính quyết định dẫn đến sự tan rã đó là do những sai lầm trong đường
lối chính trị, tư tưởng và tổ chức của Đảng Cộng sản cầm quyền, cùng sự phản bội
của một số người lãnh đạo cao nhất ở đó đối với những nguyên tắc cơ bản của chủ
nghĩa Mác – Lênin. Đúng như V.I. Lênin đã khẳng định: “Không ai có thể tiêu diệt
được chúng ta, ngoài những sai lầm của bản thân chúng ta”2. Do đó, đây chỉ là sự
sụp đổ một mô hình chủ nghĩa xã hội cụ thể, không đồng nghĩa với “sự cáo chung
của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội” như xuyên tạc, phủ nhận của các thế lực
thù địch.
Đối
với cách mạng Việt Nam, thực tiễn hơn 90 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng đã chứng
minh: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn
đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế
phát triển của lịch sử”3. Đúng vậy, nhìn lại bối cảnh lịch sử Việt Nam những
năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX có thể thấy, trước khi Đảng Cộng sản Việt
Nam ra đời, con đường giải phóng dân tộc “đen tối như không có đường ra”. Chỉ đến
khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, với chủ trương “làm tư sản dân quyền cách mạng
và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”4, nghĩa là đặt cách mạng giải
phóng dân tộc của nhân dân ta trong trào lưu của cách mạng vô sản, thì cách mạng
Việt Nam mới chấm dứt được thời kỳ khủng hoảng đường lối cứu nước. Từ đó, “độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội” luôn là đường lối cơ bản, xuyên suốt
của cách mạng Việt Nam. Với đường lối đó, Đảng ta đã quy tụ được sức mạnh của
toàn dân tộc, dẫn dắt cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi của Cách mạng Tháng
Tám, của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, đưa đất
nước Việt Nam bước vào kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội. Dưới sự
lãnh đạo của Đảng, “Nước ta từ một xứ thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một
quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa; nhân dân
ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội”5.
Vào
những năm cuối của thế kỷ XX, đứng trước sự khủng hoảng của hệ thống xã hội chủ
nghĩa thế giới, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam
theo con đường xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở kiên định mục tiêu “độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội”, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa do Đảng
ta khởi xướng và lãnh đạo đã đưa cách mạng Việt Nam vượt qua khủng hoảng, lập
nên những thành tựu “to lớn, có ý nghĩa lịch sử”. Trên lĩnh vực kinh tế, trong
suốt 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, kinh tế nước ta phát triển liên tục với
tốc độ tương đối cao, đạt mức tăng trưởng trung bình khoảng 07% mỗi năm. Từ một
nền kinh tế nông nghiệp, lạc hậu, quy mô nhỏ bé, với GDP chỉ 14 tỉ USD và GDP
bình quân đầu người khoảng 250 USD trong những năm đầu đổi mới, ngày nay Việt
Nam đã thoát khỏi tình trạng đói nghèo, trở thành nước đang phát triển có mức
thu nhập trung bình. Quy mô và tiềm lực kinh tế của đất nước không ngừng mở rộng,
đạt 342,7 tỉ USD vào năm 2020, đứng trong top 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới
và đứng thứ tư trong ASEAN; thu nhập bình quân đầu người đạt 3.521 USD vào năm
2020, đứng thứ sáu trong ASEAN. Từ một nước phải nhập khẩu lương thực, đến nay
Việt Nam trở thành nước xuất khẩu gạo và nhiều hàng nông sản khác đứng hàng đầu
thế giới. Công nghiệp phát triển khá nhanh, tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ
liên tục tăng và hiện nay chiếm khoảng 85% GDP. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu
tăng mạnh, năm 2020 đạt 543,9 tỉ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt trên 280
tỉ USD; xuất siêu liên tục từ 2016 - 2020, nhờ đó cán cân thanh toán quốc tế thặng
dư, dự trữ ngoại hối tăng từ 12,4 tỉ USD năm 2010 lên 100 tỉ USD vào năm 2020.
Đến nay, Việt Nam đã là thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), được
79 nước công nhận là nền kinh tế thị trường, có quan hệ kinh tế - thương mại và
đầu tư với 230 nước và vùng lãnh thổ; đã ký 16 hiệp định thương mại tự do thế hệ
mới.
Do
tác động của đại dịch Covid-19, năm 2020 là năm ghi nhận những suy giảm mạnh về
tăng trưởng của tất cả các nước trên thế giới, song Việt Nam vẫn là một trong số
ít nền kinh tế có tăng trưởng dương; được các chuyên gia trên thế giới đánh giá
tích cực về triển vọng phát triển. Tuy nhiên, do tác động của dịch Covid-19,
năm 2021, kinh tế Việt Nam đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Song, Đảng,
Nhà nước Việt Nam đang triển khai đồng bộ các biện pháp vừa phòng chống dịch hiệu
quả, vừa thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, được quốc tế đánh giá cao.
Trên
lĩnh vực chính trị, nước ta có quan hệ ngoại giao với hầu hết các quốc gia
thành viên Liên hợp quốc; đã thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược với 16 nước;
Đối tác toàn diện với 11 nước, bao gồm cả 05 nước Thường trực Hội đồng Bảo an
Liên hợp quốc. Việt Nam đã 02 lần đảm nhận vị trí Ủy viên không thường trực Hội
đồng này (nhiệm kỳ 2008 - 2009, 2020 - 2021) và còn đảm nhận nhiều trọng trách
quan trọng trong các tổ chức quốc tế khác, như: Chủ tịch ASEAN, Chủ tịch AIPA, Ủy
viên Hội đồng Nhân quyền thế giới, Ủy viên Ủy ban Luật pháp quốc tế và Ủy viên Ủy
ban Luật Thương mại quốc tế của Liên hợp quốc, v.v. Với vị thế và uy tín của
mình, Việt Nam trở thành địa điểm tin cậy của nhiều sự kiện quốc tế. Sự kiện
ngày 07/12/2020, Liên hợp quốc nhanh chóng thông qua Nghị quyết về tổ chức
“Ngày thế giới sẵn sàng phòng, chống dịch bệnh” do Việt Nam đề xuất, đã khẳng định
vị thế chính trị ngày càng tăng của Việt Nam trên trường quốc tế.
Các
lĩnh vực: y tế, giáo dục - đào tạo, văn hóa, xã hội, khoa học - công nghệ của đất
nước tiếp tục phát triển và có nhiều thành tựu quan trọng. Năm 2020, nước ta đã
có 09 bác sĩ và 28 giường bệnh trên một vạn dân; 91% dân số đã tham gia bảo hiểm
y tế. Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em và tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh giảm gần 03
lần trong 35 năm qua. Tuổi thọ trung bình của người dân tăng từ 62 tuổi (năm
1990) lên 73,7 tuổi (năm 2020). Theo Báo cáo cập nhật tháng 4/2021 của Ngân
hàng Thế giới tại Việt Nam: chỉ số bao phủ chăm sóc sức khỏe toàn dân của
Việt Nam là 73 - cao hơn mức trung bình của khu vực và thế giới. Sự nghiệp
giáo dục, đào tạo đạt được những kết quả tích cực. Nước ta đã hoàn thành phổ cập
giáo dục tiểu học (năm 2000) và trung học cơ sở (năm 2010); 95% người lớn biết
đọc, biết viết; số sinh viên đại học, cao đẳng tăng gần 17 lần trong 35 năm
qua. Nhiều đoàn học sinh Việt Nam đã đoạt huy chương vàng, bạc trong các kỳ thi
quốc tế. Đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân được cải thiện
đáng kể; sinh hoạt văn hóa phát triển phong phú, đa dạng. Theo kết quả Tổng điều
tra dân số và nhà ở năm 2019, tiện nghi sinh hoạt của hộ dân cư đã được cải thiện
với 91,9% hộ có sử dụng ti vi; 91,7% hộ có sử dụng điện thoại (cố định, di động)
hoặc máy tính bảng; 30,7% hộ có sử dụng máy vi tính (gồm máy để bàn, laptop).
Hiện nay, Việt Nam là một trong những nước có tốc độ phát triển công nghệ tin học
cao nhất thế giới, có khoảng 70% dân số sử dụng internet; thể thao nước nhà
cũng đã vượt khỏi phạm vi châu lục để vươn ra sân đấu tầm thế giới, như World
Cup, Olympic. Nhờ kinh tế có bước phát triển, chúng ta có điều kiện để làm tốt
hơn công tác an sinh xã hội. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 5,8%
năm 2016 theo chuẩn nghèo của Chính phủ và dưới 03% năm 2020 theo chuẩn nghèo
đa chiều (tiêu chí cao hơn trước); người nghèo và trẻ em dưới 06 tuổi được cấp
bảo hiểm y tế miễn phí. Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam năm 2019
đạt mức 0,704, thuộc nhóm nước có HDI cao của thế giới, nhất là so với các nước
có cùng trình độ phát triển. Việt Nam được Liên hợp quốc công nhận là một trong
những nước đi đầu trong việc hiện thực hóa các Mục tiêu thiên niên kỷ. Các hoạt
động nghiên cứu, ứng dụng khoa học - công nghệ, tranh thủ thành tựu của cuộc
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư được tạo điều kiện phát triển. Nhiều dự án
công nghệ cao được triển khai thực hiện thành công trên nhiều lĩnh vực, nhất là
trong y tế, giáo dục, đào tạo, thương mại điện tử, công nghệ thông tin, chuyển
đổi số, v.v. Nhờ đó, năm 2020, chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu của Việt Nam được
xếp thứ 42/131 nước, đứng đầu nhóm 29 quốc gia có cùng mức thu nhập.
Quốc
phòng và an ninh của đất nước không ngừng được tăng cường; chủ quyền quốc gia,
môi trường hòa bình, ổn định được giữ vững, tạo thuận lợi cho phát triển đất nước.
Đến nay nước ta có quan hệ quốc phòng với hơn 80 nước theo nguyên tắc tôn trọng
độc lập, chủ quyền, bình đẳng, cùng có lợi,… từ năm 2014, nước ta bắt đầu cử lực
lượng tham gia vào sứ mệnh gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc. Điều đó thể hiện
trách nhiệm của Việt Nam trong việc xây dựng lòng tin, duy trì hòa bình, ổn định
trong khu vực và trên thế giới, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường
quốc tế.
Với
những thành tựu của 35 năm đổi mới, có thể tự hào rằng: “Đất nước ta chưa bao
giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”6. Đây là kết
quả phấn đấu bền bỉ, liên tục của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta dưới ngọn cờ
“độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”. Thực tiễn đó tiếp tục khẳng định
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta là đúng đắn; đồng thời, là
minh chứng bác bỏ mọi sự xuyên tạc, phủ nhận giá trị của Cách mạng Tháng Mười
Nga.
PGS, TS. NGUYỄN NGỌC HỒI

- 越南社会主义法权国家的本质是不可歪曲的
- Không thể xuyên tạc bản chất Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
- 驳斥对越南共产党历史的一切破坏、歪曲论调
- Đấu tranh chống sự phá hoại, xuyên tạc lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
- 揭露把胡志明思想同马列主义切割的手段
- Vạch trần thủ đoạn cắt rời tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin
- 绝不能忽视破坏势力推行的“警惕精神懈怠”伎俩
- Không thể xem nhẹ thủ đoạn “ru ngủ tinh thần cảnh giác” của các thế lực chống phá
- 歪曲党的国防、安全观点—要坚决驳斥的阴险手段
- Xuyên tạc quan điểm quốc phòng, an ninh của Đảng - thủ đoạn nham hiểm cần bác bỏ
- 斗争粉粹声索“越南改变政治体制”的阴谋
- Đấu tranh chống âm mưu đòi "chuyển đổi thể chế chính trị" ở Việt Nam
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét