Những cơ sở lịch sử và pháp lý khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (Phần 4)
2.2. Từ sau thế chiến thứ
II (1945)
- Khi trở lại Đông Dương
sau chiến tranh thế giới thứ hai (1945) , đến năm 1947, Pháp đã yêu cầu đại diện
quân đồng minh ở Việt Nam là quân Trung Hoa Dân quốc rút khỏi các đảo của hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà họ đã chiếm đóng trái phép cuối năm 1946, và
Pháp đã cho quân đội đến thay thế quân đội Trung Hoa Dân quốc, đã xây dựng các
trạm khí tượng và đài vô tuyến điện tại quần đảo Hoàng Sa.
- Ngày 7-9-1951, Trưởng
đoàn đại biểu của Chính phủ Bảo Đại là Trần Văn Hữu tuyên bố tại Hội nghị San
Francisco về việc ký hòa ước với Nhật Bản rằng từ lâu quần đảo Hoàng Sa và quần
đảo Trường Sa là một bộ phận của lãnh thổ Việt Nam: “…và cũng vì cần dứt khoát
lợi dụng tất cả mọi cơ hội để dập tắt những mầm mống các tranh chấp sau này,
chúng tôi khẳng định chủ quyền đã có từ lâu đời của chúng tôi đối với các quần
đảo Trường Sa và Hoàng Sa”. Tuyên bố đó của trưởng đoàn đại biểu của chính phủ
Bảo Đại, ông Trần Văn Hữu đã không gặp sự chống đối hoặc bảo lưu nào của đại diện
51 quốc gia tham dự Hội nghị.
- Năm 1953, tàu
Ingénieur en chef Girod của Pháp khảo sát ở quần đảo Hoàng Sa về hải dương, địa
chất, địa lý, môi sinh.
- Chính phủ Sài Gòn, sau
đó là cả chính phủ Sài Gòn và chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt
Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng đều thực hiện chủ quyền của
Việt Nam. Dưới đây là một vài bằng chứng: i) Ngày 16/6/1956, Bộ Ngoại giao
chính quyền Sài Gòn đã kịch liệt phản đối việc Cộng hòa nhân dân Trung Hoa chiếm
nhóm đảo phía Đông quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam; ii) Năm 1956, lực lượng hải
quân của chính quyền Sài Gòn tiếp quản các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa khi Pháp
rút quân về nước. Sở hầm mỏ, kỹ nghệ và tiểu công nghiệp miền Nam tổ chức một
cuộc khảo sát với sự giúp đỡ của hải quân chính quyền Sài Gòn trên 4 đảo: Hoàng
Sa (Pattle), Quang Ảnh (Money), Hữu Nhật (Robert), Duy Mộng (Drumond), iii)
ngày 22/10/1956, chính quyền Sài Gòn đặt quần Trường Sa trực thuộc tỉnh Phước
Tuy; iv) ngày 13/7/1961, chính quyền Sài Gòn đặt quần đảo Hoàng Sa, trước kia
thuộc tỉnh Thừa Thiên, vào tỉnh Quảng Nam và thành lập tại quần đảo này một xã
lấy tên là xã Định Hải, trực thuộc quận Hòa Vang và đặt dưới quyền một phái
viên hành chính; v) từ năm 1961 đến năm 1963 chính quyền Sài Gòn lần lượt cho
xây dựng bia chủ quyền ở các đảo chính của quần đảo Trường Sa như: Trường Sa,
An Bang, Song Tử Tây v.v…; vi) ngày 21/10/1969 chính quyền Sài Gòn sáp nhập xã
Định Hải vào xã Hòa Long cũng thuộc quận Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam; vii) ngày
22/5/1959, chính quyền Sài Gòn đã bắt giữ trong một thời gian 82 “ngư dân” Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa đổ bộ lên các đảo Hữu Nhật, Duy Mộng, Quang Hòa trong quần
đảo Hoàng Sa; viii) ngày 20/4/1971 chính quyền Sài Gòn khẳng định một lần nữa
quần đảo Trường Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam. Ngoại trưởng chính quyền Sài Gòn khẳng
định một lần nữa chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo đó trong cuộc họp báo
ngày 13/7/1971; ix) tháng 7/1973, Viện Khảo cứu nông nghiệp thuộc Bộ Phát triển
Nông nghiệp và Điền địa Sài Gòn tiến hành khảo sát đảo Nam Ai (Nam Yết) thuộc
quần đảo Trường Sa; x) Tháng 8/1973, với sự hợp tác của công ty Nhật Bản
Maruben Corporation, Bộ Kế hoạch và Phát triển Quốc gia Sài Gòn tiến hành khảo
sát phốt phát ở quần đảo Hoàng Sa; xi) ngày 6/9/1973, chính quyền Sài Gòn đã
sáp nhập các đảo Trường Sa, An Bang, Itu Aba, Song Tử Đông, Song Tử Tây, Loại
Ta, Thị Tứ, Nam Ai, Sinh Tồn và các đảo phụ cận vào xã Phước Hải, quận Đất Đỏ,
tỉnh Phước Tuy; xii) ngày 19/01/1974, lực lượng quân sự của Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa đã chiếm đóng nhóm Tây Nam của quần đảo Hoàng Sa, và cũng trong ngày
này, chính quyền Sài Gòn tuyên bố lên án Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa xâm phạm
toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Ngày 26/01/1974, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng
hòa miền Nam Việt Nam tuyên bố lập trường 3 điểm về việc giải quyết các vấn đề
tranh chấp lãnh thổ, ngày 14/2/1974 tuyên bố khẳng định quần đảo Hoàng Sa và quần
đảo Trường Sa là một bộ phận của lãnh thổ Việt Nam; xiii) tháng 9/1975, đoàn đại
biểu chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tại Hội nghị khí
tượng Colombo tuyên bố quần đảo Hoàng Sa là của Việt Nam và yêu cầu Tổ chức Khí
tượng Thế giới (WMO) tiếp tục ghi tên trạm khí tượng Hoàng Sa của Việt Nam
trong danh mục trạm khí tượng của Tổ chức Khí tượng Thế giới (trước đây đã được
đăng ký trong hệ thống các trạm của WMO dưới biển số 48.860; xiv) Về quản lý
hành chính, năm 1982, Chính phủ Việt Nam đã quyết định thành lập huyện đảo Trường
Sa thuộc tỉnh Đồng Nai và huyện đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng.
Sau này, khi điều chỉnh địa giới hành chính, huyện đảo Hoàng Sa thuộc thành phố
Đà Nẵng và huyện Trường Sa thuộc tỉnh Khánh Hòa; xv) Chính phủ Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam đã nhiều lần khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa hoặc trong các công hàm gửi các bên liên quan, trong
các tuyên bố của Bộ Ngoại giao, trong các Hội nghị của Tổ chức Khí tượng Thế giới
(ở Genève (tháng 6/1980), của Hội nghị Địa chất Thế giới ở Paris (tháng 7/1980)
v.v. Nhà nước Việt Nam đã nhiều lần công bố “Sách Trắng” (năm 1979, 1981, 1988)
về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, khẳng định
hai quần đảo này là một bộ phận không thể tách rời của lãnh thổ Việt Nam, Việt
Nam có đầy đủ chủ quyền đối với hai quần đảo này, phù hợp với các quy định của
luật pháp và thực tiễn quốc tế, ngày 14/3/1988 Bộ Ngoại giao nước CHXHCN Việt
Nam ra tuyên bố lên án Trung Quốc gây xung đột vũ trang tại Trường Sa và khẳng
định chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa, tháng 4/2007, Chính
phủ Việt Nam quyết định thành lập thị trấn Trường Sa, xã Song Tử Tây và xã Sinh
Tồn thuộc huyện Trường Sa (18); xvi) Luật Biển Việt Nam được Quốc hội khóa XIII
thông qua ngày 21/6/2012, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2013 đã xác định
rõ “Quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền
tài phán quốc gia của Việt Nam” (19); xvii) ngày 02/5/2014, Trung Quốc ngang
nhiên kéo giàn khoan Hải Dương 981 tới vị trí cách đảo Tri Tôn thuộc quần đảo
Hoàng Sa của Việt Nam 17 hải lý về phía Nam, cách đảo Lý Sơn của tỉnh Quảng
Ngãi, Việt Nam khoảng 120 hải lý. Đây là vị trí nằm hoàn toàn trong vùng đặc
quyền kinh tế 200 hải lý của Việt Nam theo công ước luật biển của Liên Hợp Quốc
năm 1982. Để bảo vệ giàn khoan HD 981, Trung Quốc đã huy động tới 80 tàu thuyền
các loại, trong đó có 07 tàu quân sự, tàu tuần tiễu tên lửa tấn công nhanh 753,
33 tàu hải cảnh cùng nhiều tàu vận tải và ngư binh. Hằng ngày Trung Quốc còn điều
động hàng chục tốp máy bay hoạt động trên bầu trời khu vực đó. Có thời điểm, số
lượng tàu hộ tống của Trung Quốc lên tới hơn 100 chiếc. Ngày 05/5/2014, Việt
Nam tổ chức họp báo, trong đó người phát ngôn Bộ Ngoại Giao Việt Nam đã khẳng định
mọi hoạt động của nước ngoài trên các vùng biển của Việt Nam khi chưa được phép
của Việt Nam đều là bất hợp pháp và vô giá trị. Ngày 15/5/2014, người phát ngôn
Bộ Ngoại giao Lê Hải Bình tuyên bố Việt Nam đã đưa công hàm phản đối Trung Quốc
ra Liên Hợp Quốc. Ngày 20/5/2014 phái đoàn thường trực Việt Nam bên cạnh Liên Hợp
Quốc tại Genéva đã gửi thông báo đến Văn phòng Liên Hợp Quốc, Tổ chức Thương mại
Thế giới và các tổ chức quốc tế khác, cũng như các cơ quan báo chí có trụ sở tại
Genéva, về sự kiện Trung Quốc vi phạm nghiêm trọng chủ quyền Việt Nam tại Biển
Đông. Trước tình hình đó, dư luận quốc tế đã lên án hành động xâm phạm chủ quyền
của Trung Quốc ở Biển Đông, các nước như Mỹ, Nhật, Philippin, Ấn Độ, Indonesia
đã lên án hành động bất chấp luật pháp quốc tế, gây mất ổn định và làm gia tăng
căng thẳng trong khu vực của Bắc Kinh. Trước những sức ép ngày càng lớn từ dư
luận trong nước và quốc tế, Trung Quốc không còn con đường nào khác, ngày
16/7/2014 đã phải rút giàn khoan phi pháp HD 981 ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế
của Việt Nam.(20); xix) Tháng 7/2019, Trung Quốc điều nhóm tàu khảo sát địa chất
Hải Dương 8 xâm phạm vào vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa của Việt
Nam, trong 3 tháng, đến ngày 25/10/2019, Bộ Ngoại Giao Việt Nam đã lên tiếng về
thông tin nhóm tàu khảo sát địa chất Hải Dương 8 của Trung Quốc đã rút khỏi
vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Trong thông cáo phát đi
chiều 25/10, người phát ngôn của Bộ Ngoại Giao Lê Thị Thu Hằng nêu rõ: “Liên
quan đến hoạt động của nhóm tàu khảo sát địa chất Hải Dương 8 của Trung Quốc,
người phát ngôn của bộ ngoại giao Việt Nam đã nhiều lần lên tiếng. Mọi hoạt động
trong vùng biển Việt Nam được xác định theo công ước của LHQ về luật biển
(UNCLOS) 1982, không được sự cho phép của Chính phủ Việt Nam đều là hành động
xâm phạm chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam. Việt Nam yêu cầu các bên
liên quan tôn trọng chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam và
không tái diễn vi phạm”. Trong khi đó, khu vực Bãi Tư Chính của Việt Nam, mà
Trung Quốc gọi là “Bãi Vạn An” thực chất là bãi ngầm, là một phần của đáy biển
thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam được xác định phù hợp
với UNCLOS 1982. “Đây hoàn toàn không phải là khu vực tranh chấp hay có chồng lấn,
Trung Quốc không có bất kỳ cơ sở pháp lý nào để đưa ra yêu cầu đối với khu vực
này. UNCLOS 1982 và thực tiễn xét xử thời gian qua đã khẳng định rõ điều này”
(Trích thông báo của phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam chiều 25/10/2019 Nguyễn
Thị Thu Hằng) (21).
------------
(18) Bộ Ngoại giao, Ban
Biên giới quốc gia “Chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa. Nxb. Trí thức, Hà Nội, 2012, trang 29-36.
(19) Hoài Sa (chủ biên)
“Xuất bản phẩm Trung Quốc về Hoàng Sa, Trường Sa và biển Đông - cái nhìn Tổng
quan”, Nxb KHXH, Hà Nội, 2019, trang 7.
(20) Trung tướng Nguyễn
Đình Chiến “Nhìn lại sự kiện Hải Dương
981 và bài học kinh nghiệm trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo” . http://canhsatbien.vn>nghien-cuu-trao-doi
(21) Báo Tuổi trẻ online “Bộ Ngoại giao xác nhận tàu Hải Dương 8 rút khỏi vùng biển Việt Nam” http://tuoitre.vn

- 昏果岛的历史、自然条件与发展潜力
- Lịch sử, điều kiện tự nhiên và tiềm năng phát triển của đảo Cồn Cỏ
- 白龙尾岛的自然条件与发展历史
- Điều kiện tự nhiên và lịch sử phát triển của đảo Bạch Long Vĩ
- 侵犯越南黄沙长沙主权的行为均为无效
- Mọi hành vi xâm phạm chủ quyền của Việt Nam ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là vô giá trị
- 越南努力促进海洋经济跨产业集群快速和可持续发展
- Phát triển nhanh và bền vững các cụm liên kết ngành kinh tế biển
- 越南为联合国国际法委员会作出积极贡献
- Việt Nam đóng góp tích cực tại Uỷ ban Luật quốc tế của Liên hợp quốc
- 为共同的未来保护海洋
- Bảo vệ đại dương vì tương lai chung
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét