Những cơ sở lịch sử và pháp lý khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (Phần 5)
3. Người Trung Quốc luận
giải về chủ quyền ở Tây Sa, Nam Sa (Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam) (22)
Nhóm những nhà nghiên cứu
khoa học xã hội của Việt Nam do GS. Hoài Sa chủ trì, đã tiến hành chuyến khảo
sát đến các Trường Đại học các hệ thống thư viện, các Viện nghiên cứu, Bộ,
Ngành, địa phương ở Đài Loan năm 2018, đã xuất bản cuốn sách “Xuất bản phẩm
Trung Quốc về Hoàng Sa, Trường Sa và Biển Đông - Cái nhìn tổng quan” Nhà xuất bản
Khoa học Xã hội, xuất bản tại Hà Nội, năm 2019. Cuốn sách có nhiều nhận xét lý
thú về tình hình nghiên cứu và đánh giá của người Trung Quốc về Hoàng Sa, Trường
Sa và Biển Đông. Theo nhóm nghiên cứu, vì vấn đề tranh chấp ở Biển Đông bao gồm
quần đảo Hoàng Sa (TQ gọi là Tây Sa) và quần đảo Trường Sa (TQ gọi là Nam Sa)
diễn ra ngày càng gay go, phức tạp, nên các tài liệu của Trung Quốc liên quan đến
vấn đề này xuất hiện ngày càng nhiều. Nếu như trước thập kỷ 80 của thế kỷ XX,
các tài liệu của Trung Quốc chủ yếu tập trung trong “Sách Trắng” của Bộ Ngoại
Giao Trung Quốc “Chủ quyền không thể tranh cãi của Trung Quốc đối với quần đảo
Nam Sa và Tây Sa”, thì từ thập kỷ 90 trở lại đây đã xuất hiện nhiều bài nghiên
cứu trên báo chí Trung ương, địa phương, các tạp chí chuyên ngành, tạp chí của
các trường Đại học với nội dung phong phú. Bên cạnh số lượng sách báo chuyên khảo,
tính đến ngày 4/6/2016, Trung Quốc đã công bố 39.686 bài tạp chí nghiên cứu về
Nam Hải (Biển Đông), trong đó trước năm 1980 chỉ có 197 bài, tính đến hết năm
2015, tổng số luận văn thạc sĩ có liên quan đến vấn đề Nam Hải (Biển Đông) là
3042, luận án Tiến sĩ là 1003. Nội dung các tài liệu, luận văn, luận án về chủ
đề Biển Đông, bao gồm Hoàng Sa, Trường Sa tập trung vào hai chủ đề chính sau
đây:
Thứ nhất, nghiên cứu về
lịch sử của vấn đề, nhằm xây dựng những “chứng cứ lịch sử” để chứng minh cho
cái gọi là “chủ quyền không thể tranh cãi của Trung Quốc đối với hai quần đảo
Tây Sa và Nam Sa”.
Thứ hai, nghiên cứu những
cơ sở pháp lý của vấn đề nhằm tìm ra những “chỗ dựa pháp lý” để chứng minh cho
cái gọi là “chủ quyền không thể tranh cãi của Trung Quốc đối với hai quần đảo
Tây Sa và Nam Sa”.
- Ở chủ đề căn cứ lịch sử,
các xuất bản phẩm của Trung Quốc đã đưa ra các luận điểm ngụy biện như sau:
Thứ nhất, ngụy biện rằng
người Trung Quốc phát hiện ra quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) và quần đảo Nam Sa
(Trường Sa) sớm nhất, từ thời Hán Vũ Đế, thế kỷ thứ 2 sau Công nguyên. Chủ quyền
của Trung Quốc đối với các đảo ở Biển Đông chính là dựa trên cơ sở này, rồi dần
dần hình thành trong thời kỳ lịch sử lâu dài và từng bước thực hiện theo cơ sở
lý luận đó. Những tác phẩm tiêu biểu như: “Quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa từ
xưa đã là lãnh thổ của Trung Quốc” của Tác giả Lâm Kim Chi, xuất bản năm 1980.
Cuốn sách “Cống hiến lịch sử của ngư dân Hải Nam phát hiện và khai thác quần đảo
Tây Sa và Nam Sa” của tác giả Hà Ký Sinh, xuất bản năm 1981. Cuốn sách “Tây Sa
không phải là Hoàng Sa” của Quách Vĩnh Phương, xuất bản năm 1980. Đặc biệt cuốn
sách “Hội biên sử liệu các đảo Nam Hải của nước ta” do tác giả Hàn Chấn Hoa chủ
biên, xuất bản năm 1988 của NXB Đông Phương đã ngụy tạo những “chỗ dựa lịch sử”để
chứng minh cho cái gọi là chủ quyền đối với quần đảo Tây Sa, Nam Sa. Đây là kết
quả công trình hợp tác của 20 cơ quan, đơn vị nghiên cứu, Học Viện, Trường Đại
học, Thư viện, Bảo tàng Quốc gia và bảo tàng địa phương với quá trình biên soạn
công phu lên tới hàng chục năm, từ tháng 5/1975 sơ thảo, tháng 4/1985 sửa chữa
bản thảo, tháng 6/1985 viết thành bản chính thức. Họ đã thu thập tất cả các tài
liệu, kể cả ở nước ngoài, mà họ cho rằng đó là ghi chép về các đảo ở Biển Đông
trong sử sách trong và ngoài nước, gồm sách, tạp chí, phương chí, bản đồ, văn
kiện lưu trữ, bản sao, ảnh, bài báo (cắt ra) cho đến các tư liệu điều tra,
trích dẫn đến 17.000 sử liệu, sau đó phân loại chỉnh lý, biên soạn thành Hội
biên tư liệu, coi đó là “bằng chứng lịch sử” nhằm ngụy biện rằng các đảo ở Biển
Đông xưa nay vốn là lãnh thổ của Trung Quốc (23).
Thứ hai, Trung Quốc đã ngụy
biện cho rằng nhân dân Trung Quốc đã đến các đảo này khai thác làm ăn từ lâu đời.
Từ thời Đường, Tống nhân dân Trung Quốc đã sinh sống và hoạt động sản xuất đánh
bắt cá ở quần đảo Tây Sa và Nam Sa.
Học giả Trung Quốc đã dẫn
chứng các sử liệu của Trung Quốc ghi chép về cái gọi là “tình hình nhân dân
Trung Quốc đi lại, sản xuất ở quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa từ hàng ngàn
năm nay, cũng như vị trí, tình hình phân bố các đảo của hai quần đảo này”. Các
tác phẩm đó gồm: “Mộng lương lục “đời Tống, “Đảo Di chí lược” đời Nguyên, “Đông
Tây dương khảo”, “Thuận Phong tương tống” đời Minh, “Chỉ Nam chính pháp”, “Hải
quốc văn kiến lục” đời Thanh, “Canh lộ bộ” của ngư dân các thời kỳ. Trung Quốc
đã ngụy biện rằng, những tác phẩm trên không chỉ tiếp tục gọi quần đảo Tây Sa
và Nam Sa là “Cửu Nhũ Loa Châu”, “Thạch Đường”, “Thiên Lý Thạch Đường”, “Vạn lý
Thạch Đường”, “Trường Sa”, “Thiên lý Trường Sa”, “Vạn Lý Trường Sa”…mà còn đặt
ra nhiều tên gọi với hình tượng sinh động cho các đảo, đá ngầm, cát, bãi. Những
năm gần đây, ở quần đảo Tây Sa đã phát hiện di chỉ sinh sống và những đồ dùng
sinh hoạt như đồ sứ, dao, nồi đời Đường, Tống của Trung Quốc và di tích lịch sử
như Giếng nước, miếu thờ, bia mộ. Cuối cùng, Trung Quốc ngụy biện rằng “chỉ
nhân dân Trung Quốc đã sinh sống và hoạt động sản xuất đánh bắt cá ở quần đảo
Tây Sa, Nam Sa từ thời Đường, Tống”(24).
Thứ ba, Trung Quốc đã ngụy
biện rằng chính quyền các triều đại Trung Quốc đã tiến hành quản lý hai quần đảo
này. Từ thời Bắc Tống (năm 960-1127), hải quân Trung Quốc đã tuần tra biển đến
vùng quần đảo Tây Sa. Đời Nguyên (1279), Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt đích thân cử
nhà thiên văn nổi tiếng, đồng tri Thái sử Viện sự Quách Thủ Kính đến tiến hành
đo trắc địa ở Nam Hải. Đến đời Minh, Thanh, quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa
thuộc sở hữu Vạn Châu, Phủ Quỳnh Châu, tỉnh Quảng Đông. Chính quyền nhà Thanh ở
Trung Quốc đã phản đối nước ngoài có hoạt động ở vùng biển Tây Sa, Nam Sa.
Trung Quốc đã thể hiện quần đảo Tây Sa và Nam Sa trong nhiều bản đồ quan phương
(vào đời Thanh)…(25).
Thứ tư, Trung Quốc đã ngụy
biện rằng Chính phủ, nhân dân Trung Quốc đã phản đối “sự xâm lược của nước
ngoài” đối với quần đảo Tây Sa, Nam Sa và “thu hồi” các đảo từ sau chiến tranh
thế giới thứ hai (năm 1945).
Thứ năm, Trung Quốc đã
ngụy biện rằng chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Tây Sa, Nam Sa đã được
quốc tế công nhận. Sự công nhận này được thể hiện qua các hội nghị quốc tế, qua
sách vở và bản đồ do nước ngoài xuất bản (26).
- Ở chủ đề căn cứ pháp
lý, các xuất bản phẩm của Trung Quốc đã đưa ra các luận điểm ngụy biện như sau:
Ngay từ thập niên 1990
thế kỷ XX, khi tranh chấp giữa Trung Quốc và các quốc gia trong khu vực Biển
Đông tăng lên, thì các nghiên cứu vấn đề Biển Đông dưới góc độ luật quốc tế
cũng được chú trọng ở Trung Quốc. Một số sách chuyên khảo chủ yếu nhằm ngụy biện
cho cái gọi là “cho chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông dưới góc độ luật quốc
tế”. Một số công trình khác có mục đích nhằm phản bác các tuyên bố chủ quyền của
các nước trong khu vực này. Tuy nhiên, trong những năm gần đây (khoảng từ năm
2010 trở lại đây) đã xuất hiện rất nhiều những luận văn, luận án liên quan đến
các nội dung như: vấn đề pháp lý liên quan tới đường chữ U, vấn đề phân định
biên giới trên biển dưới góc độ luật quốc tế hoặc sử dụng luật quốc tế để giải
quyết tranh chấp ở Biển Đông giữa Trung Quốc và các nước khác. Có thể kể đến một
số công trình như: “Suy nghĩ về vấn đề luật quốc tế trong giải quyết tranh chấp
ở Nam Hải” của tác giả Tu Phương; “Nghiên cứu phân tích pháp lý quốc tế của vấn
đề Nam Hải và đối sách của nước ta” của Trương Hải Đình; “Phân tích luật quốc tế
của vấn đề phân định ở Nam Hải” của Phó Côn Thành…Khái quát các nghiên cứu về
căn cứ pháp lý của vấn đề Biển Đông, chủ yếu bao gồm những nội dung sau đây: Áp
dụng những quy định của luật pháp quốc tế bảo vệ cái gọi là chủ quyền “hợp pháp
chính đáng” của Trung Quốc, phản đối các nước khác đưa ra những yêu sách chủ
quyền trái luật pháp ở Biển Đông, và nghiên cứu “Công ước luật biển của Liên Hợp
Quốc” và những ứng dụng của luật quốc tế có liên quan trong giải quyết vấn đề
tranh chấp ở Biển Đông của Trung Quốc. Cụ thể là: i) Các nghiên cứu nhằm ngụy
biện cho cái gọi là chủ quyền liên quan ở Biển Đông của Trung Quốc và căn cứ
pháp luật phân định biên giới trên biển; ii) Một số nghiên cứu trên cơ sở sử dụng
luật quốc tế có liên quan và Công ước Luật biển của Liên Hợp Quốc nhằm chứng
minh chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông; iii) Vấn đề áp dụng Công ước Luật biển
và các quy định luật quốc tế có liên quan giải quyết vấn đề Biển Đông (27).
Tóm lại, các nhà học giả
Trung Quốc trong các tác phẩm của mình đều ngụy biện rằng, nếu áp dụng luật quốc
tế và Công ước Luật biển thì Trung Quốc sẽ không thể nào khẳng định được chủ
quyền một cách vô lý của mình. Điều này cũng phần nào giúp lý giải cho việc
Trung Quốc từ trước đến nay luôn chủ trương giải quyết tranh chấp thông qua con
đường đàm phán song phương, từ đó dễ dàng giành ưu thế, giúp cho việc thực hiện
âm mưu bành trướng lãnh thổ trên Biển Đông. Trung Quốc rất lo sợ giải quyết bằng
cơ chế đa phương quốc tế hóa vấn đề Biển Đông. Sau khi thất bại do phán quyết của
Tòa án Trọng tài Thường trực Liên Hợp Quốc tháng 7/2016, những luận điệu về “đường
lưỡi bò”, “đường 9 đoạn” “chữ U” của Trung Quốc đã được Trung Quốc chuyển sang
sử dụng yêu sách chủ quyền của Trung Quốc đối với “Tứ Sa”, bao gồm 4 nhóm đảo:
Đông Sa (quần đảo Pratas), Tây Sa (quần đảo Hoàng Sa), Nam Sa (quần đảo Trường
Sa) và Trung Sa (bãi Macclesfield), đồng thời Trung Quốc cũng đòi hỏi quyền được
hưởng vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý. Như vậy Trung Quốc sẽ làm chủ gần như
toàn bộ Biển Đông. Âm mưu dùng “Tứ Sa” để thay thế “đường lưỡi bò” của Trung Quốc
đã gây sự phản ứng mạnh mẽ cho các nước trong khu vực Biển Đông. Các nước và dư
luận quốc tế đang lên án, đấu tranh với Trung Quốc về âm mưu này, và cho rằng
“Tứ Sa” không có cơ sở pháp lý, đang cố ý gây nhập nhằng, thể hiện mưu đồ bành
trướng của Trung Quốc ở Biển Đông, trong đó bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa,
Trường Sa của Việt Nam.
------------
(22) Hoài Sa (chủ biên)
“Xuất bản phẩm Trung Quốc về Hoàng Sa, Trường Sa và biển Đông - cái nhìn Tổng
quan”, Nxb KHXH, Hà Nội, 2019, trang bìa, trang 46, 47.
(23) Hoài Sa (chủ biên)
“Xuất bản phẩm Trung Quốc về Hoàng Sa, Trường Sa và biển Đông - cái nhìn Tổng
quan”, Nxb KHXH, Hà Nội, 2019, trang 48, 58
(24) Hoài Sa (chủ biên)
“Xuất bản phẩm Trung Quốc về Hoàng Sa, Trường Sa và biển Đông - cái nhìn Tổng
quan”, Nxb KHXH, Hà Nội, 2019, trang 58, 59.
(25) Hoài Sa (chủ biên) “Xuất bản phẩm Trung
Quốc về Hoàng Sa, Trường Sa và biển Đông - cái nhìn Tổng quan”, Nxb KHXH, Hà Nội,
2019, trang 59.
(26) Hoài Sa (chủ biên)
“Xuất bản phẩm Trung Quốc về Hoàng Sa, Trường Sa và biển Đông - cái nhìn Tổng
quan”, Nxb KHXH, Hà Nội, 2019, trang 59, 60
(27) Hoài Sa (chủ biên) “Xuất bản phẩm Trung Quốc về Hoàng Sa, Trường Sa và biển Đông - cái nhìn Tổng quan”, Nxb KHXH, Hà Nội, 2019, trang 63-74.

- 为共同的未来保护海洋
- Bảo vệ đại dương vì tương lai chung
- 越南承诺促进蓝海可持续发展
- Việt Nam khẳng định cam kết phát triển đại dương xanh, bền vững
- 第八次海洋对话:越南承诺遵守和促进《联合国海洋法公约》
- Đối thoại biển lần thứ 8: Thúc đẩy hợp tác biển tại Đông Nam Á
- 必须对“绿色宪章”持有正确的看法
- Cần cái nhìn đúng về bản “Hiến chương xanh”
- 应用1982年UNCLOS 促进越南成为海洋强国
- Vận dụng UNCLOS 1982 để đưa Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh
- 心系家乡海洋岛屿
- 越南海警提高国际合作效率
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét