Tăng cường quan hệ với các nước láng giềng - nâng tầm vị thế đất nước
Việt Nam là quốc gia có nền văn hóa lâu đời,
luôn quan hệ, ứng xử nhân văn với tất cả các nước trên thế giới, nhất là với
các nước láng giềng. Nét đẹp truyền thống đó cũng là tư tưởng, quan điểm nhất
quán, kế sách giữ nước bền vững từ sớm, từ xa bằng biện pháp hòa bình của dân tộc
ta. Năm tháng trôi qua với biết bao thăng trầm của lịch sử, nhưng tư tưởng, kế
sách, kinh nghiệm quý báu của các bậc tiền nhân về công tác đối ngoại nói
chung, quan hệ với các nước láng giềng nói riêng vẫn còn nguyên giá trị.
I. Tầm
quan trọng chiến lược quan hệ láng giềng
Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, mở rộng và
tăng cường quan hệ đối ngoại là nhu cầu cấp thiết, quan trọng, thậm chí quyết định
sự tồn tại, phát triển đối với mọi quốc gia. Tất nhiên, Việt Nam không nằm
ngoài dòng chảy đó. Nhận thức rõ vấn đề trên, Đảng ta khẳng định: “Thực hiện đường
lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị và phát triển, đa dạng hóa,
đa phương hóa quan hệ đối ngoại”1; “Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là
thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”2. Đây là quan điểm
nhất quán của Đảng, Nhà nước ta và cũng là thông điệp gửi tới tất cả các quốc
gia trên thế giới. Chính sách đối ngoại của Việt Nam không hề mang tính hình thức
mà hoàn toàn thực chất, được thể hiện rõ bằng những hành động cụ thể của mình
trong quan hệ đối ngoại: Việt Nam mong muốn “là bạn, là đối tác tin cậy” với mọi
quốc gia, sẵn sàng mở rộng quan hệ hợp tác quốc phòng trên cơ sở không phân biệt
sự khác nhau về chế độ chính trị, trình độ phát triển giữa các quốc gia, luôn
tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nước đối tác.
Việt Nam không lệ thuộc và không chấp nhận quan hệ hợp tác quốc phòng dưới bất
kỳ điều kiện áp đặt hoặc sức ép nào. Đồng thời, cam kết thực hiện chính sách quốc
phòng minh bạch, mang tính chất hòa bình, tự vệ và “chủ trương không tham gia
liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước
ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác,
không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế”3. Độc lập,
tự chủ là lợi ích cao nhất của đất nước và cũng là nguyên tắc bất di, bất dịch
của Việt Nam trong quan hệ đối ngoại. Việt Nam không lệ thuộc vào bất cứ quốc
gia nào và không cho phép bất kể thế lực nào xâm phạm lợi ích, nguyên tắc tối
thượng đó trong quan hệ quốc tế. Với quan điểm và hành động tích cực, có trách
nhiệm trên, Việt Nam được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Theo đó, quan hệ đối
ngoại của Việt Nam không ngừng được mở rộng, phát triển đa dạng. Cho đến nay,
nước ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 189/193 nước thành viên Liên hợp quốc;
trong đó, quan hệ đối tác chiến lược với 17 nước, quan hệ đối tác toàn diện với
13 nước, riêng với Nga và Ấn Độ là đối tác chiến lược toàn diện, với Trung Quốc
là đối tác hợp tác chiến lược toàn diện, với Nhật Bản là đối tác chiến lược
toàn diện sâu rộng. Ngoài ra, Việt Nam còn là thành viên của nhiều tổ chức quốc
tế, khu vực.
Trong quan hệ đối ngoại rộng mở đó, Đảng ta đặc
biệt coi trọng quan hệ hợp tác với các nước láng giềng, đồng thời xác định rõ,
đây là vấn đề chiến lược, tác động trực tiếp đến lợi ích quốc gia, sự nghiệp
xây dựng, phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc của quân và dân ta. Việt Nam là
quốc gia biển, không có nhiều nước láng giềng nên mối quan hệ láng giềng trước
đây cũng như hiện nay luôn được trân trọng, gìn giữ, bồi đắp, phát triển không
ngừng, bất kể đó là nước lớn, vừa hay nhỏ, giàu hay nghèo. Đó là mối quan hệ hợp
tác chiến lược, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, bình đẳng, cùng có lợi của
các quốc gia láng giềng, góp phần đảm bảo lợi ích, môi trường hòa bình, ổn định,
hợp tác, phát triển trong khu vực và trên thế giới.
Đối với dân tộc ta, cụm từ “láng giềng” mang
hàm nghĩa tốt đẹp ở cả phương diện quốc gia cũng như gia đình, nó ăn sâu trong
tiềm thức của mỗi người dân Việt. Về phương diện gia đình, “hàng xóm, láng giềng”
là người rất mực gần gũi. Chẳng thế mà ngạn ngữ dân tộc ta có câu “bán anh em
xa, mua láng giềng gần”, hay “tắt lửa tối đèn có nhau”, luôn giúp đỡ, chia sẻ
cùng nhau trong mọi việc lớn, nhỏ, vui, buồn, nhất là trong hoạn nạn. Nét đẹp ứng
xử ấy được hình thành từ lâu đời, thử thách, tiếp nối qua nhiều thế hệ, trở
thành cốt cách, truyền thống nhân văn của dân tộc Việt Nam. Về phương diện quốc
gia, “láng giềng” là nước có chung đường biên giới, “núi liền núi, sông liền
sông”, có mối quan hệ hợp tác, hữu nghị, truyền thống đáng tự hào mà không phải
quốc gia nào cũng có thể có được. Thực tiễn lịch sử trước đây cũng như hiện nay
cho thấy, không gì vui và hạnh phúc hơn khi có láng giềng tốt và không có gì bất
hạnh hơn khi không có láng giềng hoặc láng giềng không tốt. Nếu có mối quan hệ
láng giềng tốt thì mọi việc đều sẽ “thông đồng, bén giọt”, biến những phức tạp
lớn thành vừa, vừa thành nhỏ, nhỏ thành không có gì, khó khăn đến mấy cũng vượt
qua. Trái lại, nếu quan hệ láng giềng không tốt thì phức tạp nhỏ cũng trở thành
lớn, khó có thể giải quyết. Mối quan hệ của Việt Nam với các nước láng giềng được
hun đúc từ lịch sử, được tôi luyện, thử thách khắc nghiệt qua thời gian với nhiều
biến cố, cho nên hết sức bền chặt, đặc biệt thủy chung, trong sáng, không gì có
thể phá vỡ. Vì thế, Việt Nam luôn coi trọng mối quan hệ với các nước láng giềng,
chăm lo gìn giữ, bồi đắp, không ngừng phát triển và trên thực tế, quan hệ đó đã,
đang trở thành tài sản quý, sức mạnh nội sinh, động lực của mỗi nước để vượt
qua mọi khó khăn, thử thách trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đảng, Nhà nước, Nhân dân Việt Nam, trong tâm
khảm của mình không bao giờ quên và hết sức biết ơn sự ủng hộ, giúp đỡ quý báu
cả tinh thần và vật chất của bạn bè quốc tế, nhất là các nước xã hội chủ nghĩa
anh em, các nước láng giềng đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc của
nhân dân ta. Nhờ sự giúp đỡ chí tình, chí nghĩa đó, đặc biệt là tinh thần đoàn
kết chiến đấu chống kẻ thù chung của quân và dân ba nước Đông Dương: Việt Nam -
Lào - Campuchia nên cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc đã thắng lợi vẻ vang,
đánh dấu mốc son chói lọi trong lịch sử chống ngoại xâm của mỗi nước. Về phần
mình, Việt Nam luôn trân trọng quá khứ, hướng tới tương lai, ứng xử nhân văn,
“trước sau như một” trong quan hệ hợp tác với các nước láng giềng. Thấu suốt
quan điểm “giúp bạn là tự giúp mình”, Việt Nam luôn sẵn sàng giúp đỡ các nước
láng giềng khi gặp khó khăn. Bằng chứng rõ nhất là khi nước bạn Campuchia gặp
hoạn nạn, các chiến sĩ quân tình nguyện Việt Nam đã không quản ngại hy sinh,
gian khổ để hoàn thành nhiệm vụ quốc tế cao cả, giúp nhân dân nước Bạn trong
công cuộc giải phóng đất nước, thoát khỏi chế độ diệt chủng của tập đoàn phản động
Pol Pôt - IêngSary năm 1979. Và mới đây, ngày 21/12/2021, Chủ tịch nước Nguyễn
Xuân Phúc đã có chuyến thăm chính thức Vương quốc Campuchia. Hai bên thống nhất
ra Tuyên bố chung Việt Nam - Campuchia, gồm 16 hoạt động, ký 07 văn kiện hợp tác
về các lĩnh vực then chốt và bàn thảo nhiều vấn đề quan trọng mà hai bên cùng
quan tâm. Đó là minh chứng rõ nét về mối quan hệ “láng giềng tốt đẹp, hữu nghị
truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài” giữa hai nước, cũng như các
nước láng giềng nói chung. Tinh thần hợp tác, hữu nghị không gì lay chuyển nổi
của các nước láng giềng còn tiếp tục được thể hiện, tỏa sáng trong cuộc chiến
chống kẻ thù chung của nhân loại – Đại dịch Covid-19. Việt Nam và các nước láng
giềng đã tích cực hợp tác, chia sẻ kinh nghiệm, giúp đỡ thiết bị y tế, vaccine
phòng dịch,… cùng nhau vượt qua thời khắc ngặt nghèo của đại dịch.
Thực tiễn lịch sử đã cho thấy tầm quan trọng
đặc biệt của mối quan hệ láng giềng. Mối quan hệ đó đặc biệt trên nhiều phương
diện, đặc biệt gần gũi, gắn bó; đặc biệt thủy chung, trong sáng; đặc biệt hữu
nghị truyền thống,…; vì thế, nó vượt ra ngoài phạm vi của mối quan hệ thông thường.
Tầm quan trọng và giá trị của mối quan hệ láng giềng không chỉ được thể hiện
trong cách ứng xử, sự ủng hộ, tin cậy lẫn nhau trong hoạt động song phương, đa
phương về giải quyết các vấn đề khu vực, quốc tế liên quan, mà hơn thế còn được
thể hiện trong mối quan hệ hợp tác toàn diện, cùng có lợi giữa các nước láng giềng.
Hiện nay, trước bối cảnh tình hình thế giới có nhiều biến động phức tạp, quan hệ
quốc tế tiềm ẩn nhiều nhạy cảm, đan xen lợi ích thì việc gìn giữ, củng cố, phát
triển mối quan hệ hợp tác, hữu nghị, truyền thống giữa các nước láng giềng càng
trở nên quan trọng, thực sự có vai trò then chốt trong tổng thể quan hệ quốc tế
của Đảng và Nhà nước ta. Đó là vấn đề chiến lược, là “chìa khóa” để Việt Nam hướng
tới tương lai, thực hiện thắng lợi mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh”, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
QUANG HỢP – MẠNH HÀ
_________________
1 - ĐCSVN – Văn kiện Đại hội Đại biểu Toàn quốc
lần thứ XIII, Tập I, Nxb CTQGST, H. 2021, tr. 161.
2 - Sđd, tr. 162.
3 - Sách Trắng Quốc phòng Việt Nam 2019, Nxb CTQGST, H. 2019, tr. 28.

- Tiếp tục đẩy mạnh, nâng tầm hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc
- 越南-联合国45周年:全面、有效的合作关系
- 45 năm Việt Nam – LHQ: Quan hệ hợp tác toàn diện và hiệu quả
- 越南与联合国关系45周年:致力于和平、合作与发展的可靠伙伴
- 45 năm quan hệ Việt Nam - Liên Hợp Quốc: Đối tác tin cậy vì hòa bình, hợp tác và phát triển
- 越柬巩固团结友好关系
- Việt Nam - Campuchia khẳng định quan hệ đoàn kết, hữu nghị
- 越老两国在发展道路上坚定不移地前进
- Việt Nam và Lào vững bước trên con đường phát triển
- 外交为国家建设、发展及可持续融入国际做出贡献
- Ngoại giao góp phần xây dựng, phát triển và đưa đất nước hội nhập bền vững
- 越南外交77周年:为国为民鞠躬尽瘁
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét