47 năm thống nhất đất nước: Hòa hợp, hòa giải và lợi ích dân tộc cốt lõi
Ngày 30 tháng 4 năm 1975 đưa đất nước Việt
Nam bước vào một kỷ nguyên mới - độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Tròn 47
năm thống nhất đất nước cũng là chừng ấy thời gian Đảng, Nhà nước ta đẩy mạnh
chính sách hòa hợp, hòa giải dân tộc, xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử
do quá khứ hay thành phần giai cấp; xây dựng tinh thần cởi mở, tôn trọng, thông
cảm, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương lai.
Chính sách hòa hợp, hòa giải của Đảng và Nhà
nước ta dựa trên lợi ích cốt lõi của quốc gia, dân tộc là Tổ quốc độc lập, thống
nhất, giàu mạnh, lãnh thổ toàn vẹn, nhân dân làm chủ, đoàn kết gắn bó máu thịt
giữa hơn 98 triệu người trong nước với hơn 5 triệu người Việt ở nước ngoài.
Lúc sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng
định, đoàn kết toàn dân tộc là cội nguồn sức mạnh, là chìa khóa quyết định
thành công của cách mạng Việt Nam.
Người nêu rõ: Đại đoàn kết tức là trước hết
phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông
dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó
cũng như cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải
đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác. Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù những người đó trước đây chống chúng ta,
bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ.
Ngày 19/12/1946, trong Lời kêu gọi Toàn quốc
kháng chiến Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người
già, người trẻ không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam
thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có
gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức
chống thực dân Pháp cứu nước”.
Thấm nhuần tư tưởng của Bác, Đảng Cộng sản và
Nhà nước Việt Nam trong mọi giai đoạn cách mạng đều nêu cao tinh thần đại đoàn
kết để tập hợp tất cả “hễ ai là người Việt Nam” vì lợi ích cốt lõi của quốc
gia, dân tộc. Điều này càng được thể hiện rõ nét từ sau đại thắng Mùa Xuân năm
1975.
Chính sách hòa hợp, hòa giải của Đảng và Nhà
nước Việt Nam lấy lợi ích quốc gia, dân tộc làm điểm tương đồng của mọi người
có dòng máu Việt, dù ở trong nước hay nước ngoài. Nhà nước ta tạo điều kiện cho
mọi người, kể cả những người từng làm việc trong chế độ cũ, về thăm, đóng góp để
xây dựng quê hương.
Tháng 1/1994, Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa
nhiệm kỳ, khóa VII của Đảng chủ trương tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân,
phát huy mọi năng lực sáng tạo của công nhân, nông dân và trí thức, các tầng lớp,
các giai cấp, các tôn giáo, kể cả cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.
Tháng 6/1996, Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII của Đảng nhấn mạnh: “Để tiếp tục đưa sự nghiệp đổi mới tiến lên,
giành những thành tựu lớn hơn, cần thực hiện tốt hơn nữa việc mở rộng, tăng cường
khối đại đoàn kết toàn dân, ở cả trong nước và nước ngoài, phát huy dân chủ, động
viên tối đa sức mạnh của toàn thể dân tộc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, văn minh”. Đảng xác định phương châm: Tăng cường khối đại đoàn kết
toàn dân tộc trên cơ sở lấy liên minh công - nông - trí làm nền tảng, đoàn kết
mọi người trong đại gia đình dân tộc Việt Nam dù sống ở trong nước hay đang định
cư ở nước ngoài…
Tháng 4/2001, Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX của Đảng cụ thể hóa về sức mạnh đại đoàn kết toàn dân: “Thực hiện
đại đoàn kết các dân tộc, tôn giáo, giai cấp, tầng lớp, thành phần kinh tế, mọi
giới, mọi lứa tuổi, mọi vùng của đất nước, người trong Đảng và người ngoài Đảng,
người đang công tác và người đã nghỉ hưu, mọi thành viên trong đại gia đình Việt
Nam dù sống trong nước hay ở nước ngoài. Phát huy sức mạnh của cả cộng đồng dân
tộc, truyền thống yêu nước, ý chí tự lực, tự cường và lòng tự hào dân tộc, lấy
mục tiêu giữ vững độc lập dân tộc, thống nhất, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng, tôn trọng những ý kiến khác
nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc, xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân
biệt đối xử về quá khứ, giai cấp, thành phần, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy
lẫn nhau, hướng tới tương lai… trên cơ sở liên minh vững chắc giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”.
Ngày 12/3/2003, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp
hành Trung ương khóa IX ra Nghị quyết số 23-NQ/TW về phát huy sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Tại
hội nghị này, Đảng ta sử dụng thuật ngữ “đại đoàn kết toàn dân tộc” thay cho
thuật ngữ “đại đoàn kết toàn dân” với ý nghĩa mở rộng đại đoàn kết, đoàn kết ở
trong nước và cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Các Đại hội X, XI, XII và XIII của Đảng tiếp
tục khẳng định tầm quan trọng to lớn của đại đoàn kết toàn dân tộc, không phân
biệt vai trò, đóng góp của người Việt Nam ở trong nước hay ở nước ngoài đối với
đất nước.
Đặc biệt, ngày 26/3/2004, Bộ Chính trị Đảng Cộng
sản Việt Nam ra Nghị quyết về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài (Nghị
quyết 36-NQ/TW).
Nghị quyết 36-NQ/TW nêu rõ: Mặc dù sống xa Tổ
quốc, đồng bào luôn nuôi dưỡng, phát huy tinh thần yêu nước, tự tôn dân tộc, giữ
gìn truyền thống văn hóa và hướng về cội nguồn, dòng tộc, gắn bó với gia đình,
quê hương. Nhiều người đã có những đóng góp về tinh thần, vật chất và cả xương
máu cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài
cần thể hiện đầy đủ truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc. Cơ sở của sự đoàn kết
là ý thức dân tộc và lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc và mục tiêu chung của mọi
người Việt Nam là giữ vững nền độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, làm cho dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; xóa bỏ mặc cảm, định kiến,
phân biệt đối xử do quá khứ hay thành phần giai cấp; xây dựng tinh thần cởi mở,
tôn trọng, thông cảm, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương lai. Mọi người Việt
Nam, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, nguồn gốc xuất thân, địa vị xã hội, lý
do ra nước ngoài, có mong muốn góp phần thực hiện mục tiêu trên đều được tập hợp
trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Người Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận
không tách rời và là một nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Để đất nước có được độc lập, thống nhất trọn
vẹn, nhân dân được sống trong hòa bình như ngày nay, chúng ta đã trải qua các
cuộc trường kỳ kháng chiến với những hy sinh, mất mát lớn lao. Cả nước có
1.146.250 liệt sỹ, trong đó 191.605 liệt sỹ trong kháng chiến chống Pháp,
849.018 liệt sỹ trong kháng chiến chống Mỹ, 105.627 liệt sỹ trong các cuộc chiến
tranh bảo vệ Tổ quốc (chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam, chiến tranh bảo vệ
biên giới phía Bắc, cuộc chiến đấu bảo vệ chủ quyền biển, đảo…); khoảng hơn 4
triệu dân thường đã thiệt mạng hoặc bị thương tật suốt đời do chiến tranh.
Chúng ta không đào bới quá khứ để nuôi hận
thù, làm sâu sắc thêm sự mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử do quá khứ. Nhưng
chúng ta không lãng quên lịch sử; ghi nhớ sự mất mát trong chiến tranh để trân
trọng hòa bình và những thành quả có được ngày hôm nay.
Chúng ta ghi nhận thái độ hòa giải, thiện chí
hòa hợp, đóng góp xây dựng đất nước từ phía những người từng quay lưng với lợi
ích cốt lõi của dân tộc là Tổ quốc độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ.
Nhưng bên cạnh đại đa số người Việt Nam ở nước
ngoài có thiện chí hòa hợp, hòa giải, vẫn còn một bộ phận cố chấp, hằn học, chống
phá, sau gần nửa thế kỷ đất nước được thống nhất, non sông thu về một mối mà vẫn
gọi ngày 30/4 là “ngày quốc hận”, “tháng tư đen”. Hòa hợp, hòa giải không phải
là cái cớ để những người này đưa ra những đòi hỏi phi lý đối với đất nước, đánh
tráo chân lý, đổi trắng thay đen, bóp méo ý nghĩa lịch sử trọng đại của Ngày thống
nhất đất nước, phủ nhận những thành tựu kinh tế-xã hội-đối ngoại mà Việt Nam đã
nỗ lực đạt được trong 47 năm qua, đặc biệt là sau gần 36 năm đổi mới.
Thực tế đã chứng minh: Đông đảo bà con người
Việt ở nước ngoài hoan nghênh công cuộc đổi mới và chính sách đại đoàn kết toàn
dân tộc của Đảng, Nhà nước ta, mong muốn đất nước cường thịnh, sánh vai với các
quốc gia trong khu vực và trên thế giới; nhiều người đã về thăm gia đình, quê
hương, tham gia các hoạt động đầu tư, kinh doanh, hợp tác khoa học, công nghệ,
giáo dục, văn hóa, nghệ thuật, thể thao, nhân đạo, từ thiện...
Mở rộng vòng tay đón nhận những người con xa
quê hướng về Tổ quốc, Đảng, Nhà nước ta luôn tạo điều kiện thuận lợi để bà con
trở về nguồn cội, thăm thân, thờ cúng tổ tiên, đóng góp cho quê hương đất nước;
đã ban hành nhiều chính sách, cụ thể hóa và hoàn thiện các quy định về xuất nhập
cảnh, cư trú, đi lại của người Việt Nam ở nước ngoài theo hướng thông thoáng,
thuận tiện và đơn giản thủ tục; tiếp tục giải quyết những vấn đề tồn tại về mua
nhà ở trong nước, thừa kế, hôn nhân gia đình, nhận con nuôi... liên quan đến
người Việt Nam ở nước ngoài; giải quyết có tình, có lý và trên cơ sở đạo lý Việt
Nam các vấn đề nhân đạo do lịch sử để lại, nhằm thực hiện chủ trương đại đoàn kết
toàn dân tộc.
Vậy mà, một số ít người Việt Nam ở nước ngoài
đến nay chưa có dịp trở về, chưa được tận mắt thấy được những thành tựu phát
triển đất nước; hoặc do thành kiến, mặc cảm, nên chưa hiểu đúng về tình hình đất
nước, cố tình đi ngược lại lợi ích chung của dân tộc, ra sức phá hoại mối quan
hệ hợp tác giữa nước sở tại với Việt Nam...
Với bộ phận thiểu số này, với những hành vi cố tình chống đối chủ trương hòa giải, lợi dụng chính sách hòa hợp để phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, cố tình “đi ngược lại lợi ích chung của dân tộc, ra sức chống phá đất nước”, Đảng, Nhà nước và nhân dân sẽ không nhân nhượng. Họ sẽ phải đối mặt với sự xa lánh của cộng đồng, lạc lõng giữa dòng chảy mạnh mẽ của cả dân tộc hướng về phía trước. Và “những viên sỏi hận thù” bé nhỏ ấy, chắc chắn sẽ chìm nghỉm dưới đáy sông.

- Phê phán quan điểm “Việt Nam đi theo chủ nghĩa tư bản mới phát triển và phù hợp với xu thế thời đại”
- 越南在实施人权进程中的努力
- Nỗ lực của Việt Nam trong trong thực hiện quyền con người
- 灵活应对 坚决行动 促进恢复和发展
- Ứng phó linh hoạt, quyết tâm hành động để thúc đẩy phục hồi và phát triển
- 新闻自由必须在法律框架内
- Tự do báo chí phải trong khuôn khổ của pháp luật
- 为越南继续促进性别平等奠定坚实基础
- Nền tảng vững chắc để Việt Nam tiếp tục thúc đẩy bình đẳng giới
- 必须停止对越南宗教的颠倒黑白、混淆是非的论调
- Cần chấm dứt những luận điệu 'đổi trắng thay đen'
- 美国国务院年度人权报告的荒谬之处
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét