Ngân hàng Thế giới: Tỷ lệ nghèo ở Việt Nam đã giảm đầy ấn tượng
Theo Ngân hàng Thế giới (WB), trong thập kỷ
qua, tỷ lệ nghèo ở Việt Nam đã giảm đầy ấn tượng. Dựa theo chuẩn quốc gia thu
nhập trung bình thấp của Ngân hàng Thế giới thì tỷ lệ nghèo ở Việt Nam đã giảm
từ 16,8% xuống còn 5% trong giai đoạn từ 2010-2020, với trên 10 triệu người dân
đã được hỗ trợ thoát nghèo.
Đại dịch COVID-19 xuất hiện đột ngột vào cuối
thập kỷ này đã làm ngưng trệ tiến độ tăng lương và cải thiện về chất lượng việc
làm; đồng thời, khiến cho những tiến triển và nỗ lực giảm nghèo bị lùi lại.
Ngày 28/4 tới đây, WB tổ chức lễ công bố
"Báo cáo đánh giá thực trạng nghèo và bình đẳng của Việt Nam năm 2022 – từ
chặng đường cuối đến chặng đường kế tiếp". Sự kiện nhằm thảo luận các xu
hướng nghèo đói và bất bình đẳng trong thập kỷ qua, những tác động tiêu cực từ
đại dịch COVID-19, cùng với những thách thức giảm nghèo kinh niên.
Ngoài ra, các diễn giả tham gia lễ công bố sẽ
tập trung làm rõ con đường dẫn đến thu nhập trung bình và thu nhập cao; các
chính sách liên quan bao gồm việc cải tiến chất lượng trong giáo dục đại học,
hiện đại hóa hệ thống an sinh xã hội và phát triển nguồn tài chính công để đáp ứng
nhu cầu của tầng lớp trung lưu đang ngày càng mở rộng.
WB cũng khuyến nghị rằng, để tiếp tục giảm
nghèo và cải thiện mức sống tại Việt Nam cho tất cả mọi người rất cần các chính
sách giảm nghèo mục tiêu, các chiến lược mới giúp những người đã thoát nghèo đạt
được an ninh kinh tế.
Hiện nay, tỷ lệ nghèo kinh niên vẫn đang nhỉnh
hơn ở một số nhóm nhất định và đây cũng là một thách thức ở chặng đường cuối
trên hành trình giảm nghèo tại Việt Nam. Tỷ lệ nghèo ở một số nhóm nghèo kinh
niên đã giảm gần một nửa trong giai đoạn từ 2010 đến 2020, bao gồm các nhóm đồng
bào dân tộc thiểu số và hộ gia đình ở khu vực trung du và miền núi phía bắc.
Người lao động đồng bào dân tộc thiểu số đang
dịch chuyển nhanh sang làm việc ở các lĩnh vực sản xuất chế tạo chế biến, với tốc
độ tương đương như dân tộc Kinh ở đầu thập kỷ.
Ngoài người nghèo, một tỷ lệ dân số đa dạng
hơn đang có nguy cơ dễ tổn thương về kinh tế. Tốc độ thay đổi nhanh chóng do
phát triển kinh tế đem lại dù sao cũng khiến cho một số người bị tụt lại và bị
giảm cơ hội tham gia vào các lĩnh vực năng động nhất của nền kinh tế, đồng thời
tạo ra một nhóm lớn người dân không còn nghèo nhưng chưa thuộc về tầng lớp
trung lưu.
Cho dù rủi ro rơi vào cảnh nghèo cùng cực hiện
ở mức thấp, nhưng quan ngại chính đáng của họ vẫn là được đảm bảo an ninh kinh
tế ở mức cao hơn.
Trong năm 2016, gần 40% người ở tầng lớp
trung lưu bị tụt xuống nhóm kinh tế thấp hơn vào năm 2018. Các hộ gia đình cần
có chiến lược mới để vươn lên mức sống của quốc gia thu nhập trung bình cao và
quốc gia thu nhập cao trên chặng đường kế tiếp.
Đầu tư công bằng vào vốn nhân lực là điều kiện
cần để giảm nghèo bao trùm và phá vỡ xu thế nghèo liên thế hệ. Tỷ lệ hoàn thành
bậc học có sự khác biệt theo đặc điểm của hộ gia đình, cụ thể là đặc điểm về
dân tộc và tình trạng kinh tế.
COVID-19 cũng gây ra những tổn thất lớn về học
tập, với cảm nhận rõ hơn trong số trẻ em không được tiếp cận với công nghệ số.
Điều đó có thể tiếp tục nới rộng khoảng cách về đầu tư cho vốn nhân lực.
Việt Nam muốn trở thành quốc gia có thu nhập
cao đòi hỏi năng suất lao động cũng cần được nâng cao. Thị trường lao động vẫn
có những đặc trưng như mức lương còn thấp, khu vực phi chính thức còn lớn và
các nghề đòi hỏi kỹ năng cao tăng trưởng còn chậm.
Môi trường kinh doanh và giáo dục bậc cao cần
tiếp tục được cải thiện sao cho nhóm dân số trẻ được tận dụng đầy đủ và có thể
giúp Việt Nam hiện thực hóa đầy đủ tiềm năng tăng trưởng của mình.
Chính sách kinh tế nhằm duy trì tăng trưởng bền
vững cần được bổ sung bằng những chiến lược phòng vệ để tránh các hộ gia đình bị
tái nghèo. Các hộ gia đình đang có nguy cơ với các cú sốc khác nhau, có thể gây
tốn kém, trong khi người nghèo có nguy cơ bị rơi vào bẫy nghèo.
COVID-19 cho thấy hệ thống đảm bảo xã hội
đang phải đối mặt với một số thách thức về khả năng tiếp cận những cá nhân và
người lao động bị ảnh hưởng nhưng nằm ngoài tầm nhìn của Chính phủ, chẳng hạn
người lao động trong khu vực phi chính thức.
Chính sách tài khóa có thể hỗ trợ hình thành
một xã hội tầng lớp trung lưu phát triển bao trùm và thịnh vượng. Qua so sánh
tác động tài khóa giữa các quốc gia, chính sách tài khóa của Việt Nam đang ở mức
trung bình trong số các quốc gia thu nhập trung bình thấp về hỗ trợ góp phần giảm
bất bình đẳng.
Gói chính sách tài khóa phù hợp có thể giúp huy động vốn phục vụ nhu cầu đầu tư cho quốc gia và người lao động để nâng cao năng suất và thu nhập, chẳng hạn nhằm hiện đại hóa nông nghiệp, cải thiện về kỹ năng và chất lượng giáo dục, hạ tầng số vững chắc hơn và các dịch vụ liên quan.

- Tiếp tục phát huy quyền làm chủ nhân dân trong xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
- 批评“越南走向资本主义才能发展且顺应时代潮流”的观点
- Phê phán quan điểm “Việt Nam đi theo chủ nghĩa tư bản mới phát triển và phù hợp với xu thế thời đại”
- 越南在实施人权进程中的努力
- Nỗ lực của Việt Nam trong trong thực hiện quyền con người
- 灵活应对 坚决行动 促进恢复和发展
- Ứng phó linh hoạt, quyết tâm hành động để thúc đẩy phục hồi và phát triển
- 新闻自由必须在法律框架内
- Tự do báo chí phải trong khuôn khổ của pháp luật
- 为越南继续促进性别平等奠定坚实基础
- Nền tảng vững chắc để Việt Nam tiếp tục thúc đẩy bình đẳng giới
- 必须停止对越南宗教的颠倒黑白、混淆是非的论调
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét