45 năm hợp tác toàn diện và hiệu quả
Ngày 20/9/1977, Việt Nam chính thức gia nhập Liên hợp quốc, tổ chức
có vai trò trung tâm trong xây dựng luật pháp quốc tế, gìn giữ hòa bình, ngăn
ngừa xung đột và ứng phó thách thức toàn cầu. Trong chặng đường 45 năm hợp tác
với Liên hợp quốc, Việt Nam từ một nước cần sự hỗ trợ để tái thiết, đến nay trở
thành đối tác ngày càng tích cực, chủ động, đóng góp thực chất vào các hoạt động
của Liên hợp quốc.
Việt Nam luôn đánh giá cao và trân trọng sự hợp tác với Liên hợp
quốc, từ giai đoạn xây dựng lại đất nước sau chiến tranh đến thời kỳ phá thế
bao vây cấm vận và từng bước hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Hiệu quả hợp
tác Việt Nam-Liên hợp quốc vừa đáp ứng được yêu cầu, lợi ích của Việt Nam trong
từng giai đoạn, vừa góp phần tăng cường vai trò, tiếng nói và ghi đậm dấu ấn
đóng góp của Việt Nam tại diễn đàn đa phương.
Việt Nam được Liên hợp quốc và cộng đồng quốc tế đánh giá là điển
hình thành công trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ và
là một quốc gia quyết tâm và nghiêm túc thực hiện Chương trình nghị sự năm 2030
về phát triển bền vững và Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu. Tại Hội nghị lần
thứ 26 các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu
(COP26), Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính công bố mục tiêu của Việt Nam đạt
phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, tham gia sáng kiến Cam kết toàn cầu giảm
phát thải methane, Tuyên bố Glasgow của các nhà lãnh đạo về rừng và sử dụng đất,
Tuyên bố chuyển đổi từ điện than sang điện sạch và Liên minh Hành động thích ứng
toàn cầu.
Dấu ấn Việt Nam thể hiện đậm nét tại nhiều vị trí, cơ quan quan trọng
của Liên hợp quốc những năm vừa qua. Sau thành công trong nhiệm kỳ 2008-2009,
Việt Nam tiếp tục được bầu là Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp
quốc giai đoạn 2020-2021 với số phiếu ủng hộ cao kỷ lục và đã hoàn thành xuất sắc
nhiệm kỳ, thể hiện trách nhiệm cao, trực tiếp đóng góp vào các nỗ lực duy trì
hòa bình, an ninh quốc tế và khu vực. Việt Nam đang đảm nhiệm nhiều vị trí quan
trọng tại các cơ quan Liên hợp quốc như Hội đồng khai thác Liên minh Bưu chính
thế giới (UPU), Hội đồng Thống đốc Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA),
Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa (UNESCO), Ủy ban Luật pháp quốc tế
(ILC)... Việt Nam cũng đẩy mạnh vận động ứng cử làm thành viên Hội đồng Nhân
quyền và một số cơ chế của Liên hợp quốc như Ủy ban Ranh giới thềm lục địa
(CLCS), Ủy ban Pháp lý và kỹ thuật của Cơ quan Quyền lực đáy đại dương (LTC).
Tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình được Liên hợp quốc đánh giá là
một trong những thế mạnh của Việt Nam trong những nỗ lực chung nhằm góp phần giải
quyết các vấn đề hòa bình, an ninh khu vực và quốc tế. Việt Nam đã cử 493 lượt
sĩ quan quân đội làm nhiệm vụ tại các Phái bộ gìn giữ hòa bình ở Nam Sudan, Cộng
hòa Trung Phi và Cục Gìn giữ hòa bình tại Trụ sở Liên hợp quốc; triển khai 4 lượt
bệnh viện dã chiến cấp 2 tại Phái bộ ở Nam Sudan và một đội công binh tại Phái
bộ ở Abyei, khu vực tranh chấp giữa Nam Sudan và Sudan; là một trong những nước
có tỷ lệ nữ tham gia cao nhất trong các nước cử quân.
Hợp tác ứng phó dịch Covid-19 là một trong những điểm sáng trong
quan hệ Việt Nam-Liên hợp quốc. Việt Nam đã tiếp nhận gần 50 triệu liều vắc-xin
thông qua Chương trình COVAX và vật tư y tế trị giá 45 triệu USD từ các tổ chức
Liên hợp quốc. Chủ động phối hợp tốt với Liên hợp quốc trong công cuộc chống dịch,
Việt Nam đã đề xuất Nghị quyết về việc lấy ngày 27/12 hằng năm là Ngày Quốc tế
Phòng, chống dịch bệnh và đã được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua. Việt
Nam đóng góp 50.000 USD cho Quỹ Ứng phó Covid-19 của Liên hợp quốc và một triệu
USD cho COVAX, trở thành điểm tiếp nhận và điều trị bệnh nhân theo cơ chế Nhóm
công tác Sơ tán y tế trên toàn hệ thống Liên hợp quốc (MEDEVAC).
Hành trình hợp tác 45 năm với những kết quả tích cực, thực chất giữa Việt Nam và Liên hợp quốc sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho nỗ lực chung của hai bên trong việc khắc phục những mặt còn hạn chế, đồng thời mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác, hỗ trợ tích cực cho công cuộc phát triển đất nước, hội nhập quốc tế của Việt Nam cũng như góp phần nâng cao vai trò và vị thế tổ chức hợp tác đa phương lớn nhất hành tinh trong thời kỳ mới.
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét