Không thể xuyên tạc, phủ nhận tầm vóc, ý nghĩa và giá trị Ngày Chiến thắng 30/4/1975
Xuyên tạc, phủ nhận Ngày Chiến thắng 30/4/1975 là thủ đoạn quen
thuộc mà các thế lực thù địch thường đẩy mạnh mỗi khi tháng Tư hằng năm về, nhằm
hạ thấp tầm vóc, ý nghĩa và giá trị cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của
nhân dân ta. Tuy nhiên, đó chỉ là những tiếng nói lạc lõng.
11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975, lá cờ của Mặt trận dân tộc Giải
phóng miền Nam Việt Nam tung bay trên nóc Dinh Độc Lập, đánh dấu giờ phút
thiêng liêng của dân tộc Việt Nam, kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước kéo dài 21 năm (1954 - 1975). Kể từ đó, ngày 30/4 hằng năm trở thành
ngày lễ chính thức của nhân dân Việt Nam, được đặt tên là Ngày Chiến thắng, hoặc
Ngày Giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước. Nhân dịp sự kiện lịch sử
trọng đại này, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta thường tổ chức nhiều hoạt động
kỷ niệm. Thế nhưng, như đã thành thông lệ, đến thời gian này, một số đối tượng
chống cộng cực đoan ở hải ngoại lại tung ra các bài viết, trả lời phỏng vấn với
cách nhìn sai lệch, hằn học về Ngày 30/4/1975. Họ gọi cuộc chiến tranh do đế quốc
Mỹ tiến hành ở Việt Nam giai đoạn 1954 - 1975 là “cuộc nội chiến giữa hai miền
Nam - Bắc”; gọi ngày 30/4/1975 là “Ngày Quốc hận” và tháng 4/1975 là “Tháng tư
đen”,… nhằm xuyên tạc tính chất, phủ nhận tầm vóc, ý nghĩa và giá trị cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta, kích động sự thù hận còn đọng lại
trong một bộ phận người vẫn luyến tiếc thân phận làm tay sai cho đế quốc Mỹ.
Tuy nhiên, đó chỉ là những tiếng nói lạc lõng, không che lấp được tầm vóc, ý
nghĩa và giá trị của Ngày Chiến thắng 30/4.
Về tính chất của cuộc chiến tranh (1954 -1975) ở Việt Nam, tất cả
những bằng chứng lịch sử đều khẳng định rằng, đây là cuộc chiến tranh xâm lược
Việt Nam do đế quốc Mỹ tiến hành. Âm mưu của đế quốc Mỹ là nhằm “Tiêu diệt bằng
được phong trào yêu nước của nhân dân ta, thôn tính miền Nam, biến miền Nam
thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ, lập phòng tuyến ngăn chặn chủ
nghĩa xã hội lan xuống Đông Nam châu Á; đồng thời, lấy miền Nam làm căn cứ tiến
công miền Bắc, tiền đồn của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới ở Đông Nam châu
Á, hòng đè bẹp và đẩy lùi chủ nghĩa xã hội ở vùng này, bao vây và uy hiếp các
nước xã hội chủ nghĩa khác”1. Để thực hiện âm mưu đó, đế quốc Mỹ đã tiêu tốn
676 tỉ USD, “huy động lúc cao nhất tới 70% lục quân, 60% lính thủy đánh bộ, 40%
hải quân, 60% không quân”2; có lúc hơn nửa triệu quân Mỹ hiện diện trên chiến trường
miền Nam Việt Nam (chưa kể quân của một số nước đồng minh), cùng các loại vũ
khí, phương tiện chiến tranh hiện đại nhất được huy động để chống lại nhân dân
Việt Nam. Những cứ liệu đó đã bóc trần sự xuyên tạc của luận điểm cho rằng:
“đây là cuộc nội chiến của những người Việt Nam với nhau”. Nhiều học giả phương
Tây, chính khách Hoa Kỳ và những người từng phục vụ trong chế độ Sài gòn cũng
bác bỏ luận điểm đó. Tác giả cuốn sách Chiến tranh Việt Nam và văn hóa Mỹ (xuất
bản năm 1991 tại Mỹ) đã khẳng định rằng: “Nói ngắn gọn, Mỹ xâm lăng Nam Việt
Nam”3. Cựu Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger, đã thừa nhận: “Chúng ta đã sai lầm.
Việc đưa các lực lượng quân sự Mỹ vào Việt Nam là biện pháp giải quyết tồi nhất”.
Còn giáo sư Trần Chung Ngọc - cựu sĩ quan quân đội Sài Gòn thẳng thắn chỉ ra:
“Với những hiểu biết mới về cuộc chiến thì chúng ta đã rõ, cuộc chiến hậu
Geneva là cuộc chiến chống xâm lăng của Mỹ, Mỹ xâm lăng vì cái thuyết Đomino
sai lầm,… Đây là kết luận của các học giả Tây phương, xét theo những sự kiện lịch
sử chứ không xét theo cảm tính phe phái”4. Ngay Phó Tổng thống Việt Nam Cộng
hòa Nguyễn Cao Kỳ cũng thừa nhận: “Đây là cuộc chiến tranh của người Mỹ. Mỹ
luôn luôn đứng ra trước sân khấu làm “kép nhất”, và chúng tôi chỉ là những kẻ
đánh thuê”5. Chỉ cần bằng vài cứ liệu lịch sử nói trên cũng có thể khẳng định:
cuộc chiến từ năm 1954 đến năm 1975 ở Việt Nam không phải là “nội chiến”, mà là
cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống lại sự xâm lược của đế quốc Mỹ. Cuộc
kháng chiến đó đã giành được thắng lợi trọn vẹn vào ngày 30/4/1975 với Chiến dịch
Hồ Chí Minh lịch sử.
Về tầm vóc, ý nghĩa và giá trị của Ngày Chiến thắng 30/4/1975, tuyệt
đại đa số nhân dân Việt Nam coi đó là một mốc son chói lọi trong lịch sử chống
ngoại xâm của dân tộc, mở ra một thời kỳ phát triển mới, rực rỡ hơn cho đất nước;
không phải là “Tháng tư đen” hay “ngày Quốc hận” như sự than vãn của một nhúm
người chống cộng cực đoan ở hải ngoại. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước với
thắng lợi quyết định vào ngày 30/4/1975 có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp đấu
tranh giành độc lập, tự do cho dân tộc, hòa bình cho đất nước, đồng thời có ý
nghĩa tầm vóc thời đại. Đánh giá tầm vóc, ý nghĩa của Chiến thắng 30/4, Đại hội
lần thứ IV của Đảng ta đã khẳng định: “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của
nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào
lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng
ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người và
đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có
tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”6.
Đối với cách mạng Việt Nam: đó là thắng lợi to lớn nhất, trọn vẹn
nhất, vĩ đại nhất trong hành trình thực hiện mục tiêu cách mạng do Đảng ta và
Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo; là trang sử hào hùng và chói lọi trên con đường
dựng nước và giữ nước mấy nghìn năm của dân tộc. Nhân dân ta đánh thắng kẻ thù
lớn mạnh và hung hãn nhất trong thế kỷ XX của loài người tiến bộ; kết thúc oanh
liệt cuộc chiến đấu 30 năm giành độc lập tự do, thống nhất cho đất nước; chấm dứt
ách thống trị hơn một thế kỷ của chủ nghĩa thực dân cũ và mới trên đất nước ta;
hoàn thành về cơ bản cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước; mở
ra thời kỳ phát triển mới của dân tộc - thời kỳ Tổ quốc ta được hoàn toàn độc lập,
non sông thu về một mối, cả nước được sống trong hòa bình, tự do để xây dựng cuộc
sống ấm no, hạnh phúc. Với thắng lợi này, Đảng và nhân dân ta có điều kiện tập
trung mọi nguồn lực vật chất và tinh thần để tiến hành sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước. Có thể nói rằng, không có Chiến thắng 30/4,
chúng ta không có công cuộc đổi mới hiện nay, không có điều kiện để tập trung
tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đạt được những thành tựu to lớn, có
ý nghĩa lịch sử trong gần 50 năm qua. Ngày nay, đất nước đã thoát khỏi tình trạng
nước nghèo, kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có mức thu nhập
trung bình. Quy mô và tiềm lực kinh tế của đất nước vào năm 2020 đã đứng trong
tốp 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới và đứng thứ tư trong ASEAN. Từ một nước
nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu, phải nhập khẩu lương thực, ngày nay nước ta đã
trở thành một nước xuất khẩu gạo và nhiều mặt hàng nông sản (cà phê, hạt điều,
thủy sản, cao su,…) đứng trong tốp đầu thế giới. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch
tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, với công nghiệp và dịch vụ
chiếm khoảng 85% GDP. Nước ta đã có quan hệ ngoại giao với hầu hết các quốc gia
thành viên Liên hợp quốc, bao gồm cả năm nước Thường trực Hội đồng Bảo an; có
quan hệ kinh tế - thương mại và đầu tư với 230 quốc gia và vùng lãnh thổ; là
thành viên của nhiều định chế kinh tế quốc tế lớn; hai lần đảm nhận vị trí Ủy
viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và còn giữ nhiều trọng
trách quan trọng trong các tổ chức quốc tế khác. Đời sống của các tầng lớp nhân
dân không ngừng được cải thiện. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 58% năm 1993 xuống còn
dưới 03% năm 2020 theo chuẩn nghèo đa chiều, được Liên hợp quốc công nhận là một
trong những nước đứng đầu thực hiện Mục tiêu Thiên niên kỷ. Chính trị - xã hội ổn
định; quốc phòng, an ninh được tăng cường; độc lập, chủ quyền quốc gia được giữ
vững. Những thành tựu đó cho thấy, từ sau ngày 30/4/1975, đất nước không “đen tối,
u ám” như các thế lực thù địch, phản động tuyên truyền; ngược lại, “Đất nước ta
chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”7.
Riêng Thành phố Hồ Chí Minh, qua gần 50 năm xây dựng, phát triển và hàn gắn vết
thương chiến tranh, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thành phố luôn phát huy
tinh thần Chiến thắng của ngày 30/4/1975, vượt qua những khó khăn, thách thức,
để giành được nhiều thành tựu to lớn, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực. Thành
phố đã trở thành một đô thị đặc biệt, một trung tâm về nhiều mặt của cả nước,
luôn giữ vững vị trí đầu tàu kinh tế của đất nước, đóng góp 23% GDP và 27% vào
ngân sách quốc gia. Chất lượng cuộc sống của người dân Thành phố được nâng cao,
an sinh xã hội được đảm bảo, đời sống của các đối tượng nghèo, gia đình chính
sách được chăm lo chu đáo với nhiều chính sách tiến bộ. An ninh chính trị, trật
tự an toàn xã hội trên địa bàn Thành phố được giữ vững. Thực tiễn trên là minh
chứng hùng hồn bác bỏ sự xuyên tạc, phủ nhận ý nghĩa và giá trị của Ngày Chiến
thắng 30/4/1975.
Đối với thế giới: thắng lợi ngày 30/4/1975 của nhân dân ta là một
thắng lợi tiêu biểu của lực lượng cách mạng thế giới, đập tan cuộc phản công
chiến lược lớn nhất (kể từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai) của chủ nghĩa
đế quốc vào ba trào lưu cách mạng của thời đại, làm đảo lộn chiến lược toàn cầu
phản cách mạng của chủ nghĩa đế quốc, phá vỡ phòng tuyến quan trọng của đế quốc
Mỹ ở Đông Nam châu Á; góp phần thúc đẩy mạnh mẽ cuộc đấu tranh của nhân dân thế
giới vì mục tiêu của thời đại là độc lập dân tộc, hòa bình, dân chủ và tiến bộ
xã hội; cổ vũ, động viên các dân tộc đang tiến hành công cuộc giải phóng dân tộc,
chống chủ nghĩa đế quốc, tạo điều kiện thuận lợi cho cách mạng Lào và Campuchia
giành thắng lợi; mở đầu sự phá sản của chủ nghĩa thực dân mới trên toàn thế giới.
Chiến thắng 30/4/1975 của nhân dân Việt Nam đã khẳng định một chân lý: trong thời
đại ngày nay, một dân tộc nước không rộng, người không đông, kinh tế kém phát
triển, nhưng biết đoàn kết và quyết tâm, có một đường lối cách mạng đúng đắn và
sáng tạo phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của mình và được sự giúp đỡ của bạn bè
quốc tế thì có thể hoàn toàn đánh bại mọi thế lực xâm lược mạnh hơn gấp bội.
Gần 50 năm đã trôi qua, nhưng tầm vóc, ý nghĩa và giá trị của Ngày
Chiến thắng 30/4/1975 vẫn tiếp tục tỏa sáng, thúc đẩy toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân ta vững bước trên con đường đổi mới, xây dựng một Việt Nam “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, hùng cường và hạnh phúc, sánh vai với các
nước phát triển. Lịch sử và hiện thực bác bỏ mọi sự xuyên tạc, phủ nhận tầm
vóc, ý nghĩa và giá trị Ngày Chiến thắng 30/4 của nhân dân ta.
NGUYỄN NGỌC HỒI
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét