Cần cái nhìn đúng về bản “Hiến chương xanh”
UNCLOS được ví như một bản “Hiến chương xanh” của nhân loại trong
các vấn đề liên quan tới biển và đại dương, song việc giải thích và áp dụng
UNCLOS cần bảo đảm tính đúng đắn, khoa học và khách quan mới có thể phát huy
vai trò và giá trị của công ước này.
Văn kiện pháp lý quốc tế
tổng hợp
Ngày 30-4-1982, Hội nghị của Liên hợp quốc về Luật Biển lần thứ 3
đã thông qua một công ước mới, gọi là Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển
(UNCLOS) năm 1982. Ngày 23-6-1994, Việt Nam là một trong những quốc gia đầu
tiên phê chuẩn và chính thức trở thành thành viên của UNCLOS.
Là người nhiều năm nghiên cứu về các vấn đề biên giới và các văn bản
pháp lý liên quan tới biên giới, Tiến sĩ Trần Công Trục cho biết UNCLOS được
xây dựng theo nguyên tắc “cả gói”, bao gồm tất cả mọi khía cạnh liên quan đến
Luật Biển. Đây là một văn kiện pháp lý quốc tế tổng hợp, toàn diện, bao hàm tất
cả những nội dung quan trọng nhất trong luật pháp và thực tiễn quốc tế về biển
và đại dương thế giới.
Trong đó, quan trọng nhất là thống nhất phương pháp xác định phạm
vi không gian của các vùng biển và thềm lục địa thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền
và quyền tài phán quốc gia của các nước ven biển. Công ước cũng quy định rõ
ràng các quyền và nghĩa vụ của mọi quốc gia, dù có biển và không có biển, phát
triển hay đang phát triển, trên nhiều lĩnh vực như an ninh, bảo vệ môi trường,
thăm dò khai thác tài nguyên thiên nhiên, giao thông liên lạc, nghiên cứu khoa
học và công nghệ... trên các vùng biển thuộc quyền tài phán quốc
gia, cũng như các vùng biển nằm ngoài phạm vi quyền tài phán quốc gia.
Như những gì được nêu ra trong UNCLOS, biển và đại dương được phân
chia thành 3 loại với các quy chế pháp lý ở những mức độ khác nhau. Thứ nhất,
các vùng biển là bộ phận lãnh thổ của quốc gia ven biển mà ở đó quốc gia ven biển
hoàn toàn có chủ quyền như nội thủy hay lãnh hải. Thứ hai, các vùng biển không
phải là bộ phận của lãnh thổ của quốc gia ven biển, chỉ thuộc quyền chủ quyền
và quyền tài phán của quốc gia ven biển như vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc
quyền kinh tế và thềm lục địa. Thứ ba, vùng biển không thuộc chủ quyền, quyền
chủ quyền và quyền tài phán của bất kỳ quốc gia nào, kể cả quốc gia có biển và
quốc gia sử dụng biển như biển quốc tế.
Đáng chú ý, các quốc gia ven biển kế cận hay đối diện nhau mà khoảng
cách có cự ly thấp hơn so với chiều rộng của các vùng biển và thềm lục địa, khi
được các quốc gia này xác lập theo quy định của UNCLOS, đã tạo ra vùng chồng lấn
cần được đàm phán để hoạch định theo nguyên tắc công bằng.
Để xác định phạm vi các vùng biển nói trên, UNCLOS quy định những
tiêu chuẩn mà các quốc gia ven biển cần vận dụng để hoạch định một cách cụ thể,
rõ ràng, theo nguyên tắc “Đất thống trị biển”. Đơn cử, trong Biển Đông có 3 loại
thực thể địa lý có hiệu lực trong việc xác định phạm vi các vùng biển nói trên,
đó là “Quốc gia ven biển”, “Quốc gia quần đảo” và “các thực thể địa lý ở giữa
biển”.
Công ước quy định việc xác lập vùng biển và thềm lục địa của các
thực thể địa lý này, với những tiêu chuẩn khá cụ thể. Căn cứ vào vị trí và cấu
trúc của những loại thực thể địa lý đó, các quốc gia ven biển, quốc gia quần đảo
và quốc gia có chủ quyền đối với các thực thể địa lý ở giữa biển có quyền thiết
lập hệ thống đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải (gọi là đường cơ sở),
là căn cứ để xác định chiều rộng và giới hạn phạm vi của lãnh hải, vùng tiếp
giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa.
Một điều khác cần lưu ý, đó là: Ngoài phạm vi lãnh hải tối đa 12 hải
lý xung quanh các thực thể địa lý của các quần đảo và ngoài phạm vi các vùng biển
và thềm lục địa của các quốc gia ven biển và quốc gia quần đảo, được xác định
theo quy định của UNCLOS, còn có phạm vi Biển cả (High sea) và Vùng
(Zone), là “di sản chung của nhân loại” thuộc quyền và lợi ích chính đáng của tất
cả mọi quốc gia dù có biển hay không có biển.
UNCLOS không phải là “cây
đũa thần”
Với những quy định nói trên, UNCLOS được coi là văn kiện pháp lý
quan trọng mang tính toàn cầu, đáp ứng sự mong mỏi của cộng đồng quốc tế về một
trật tự pháp lý quốc tế mới đối với tất cả vấn đề về biển và đại dương. Vậy liệu
công ước này có đóng vai trò quyết định trong việc giải quyết các vấn đề nổi
lên trên biển, chẳng hạn như vấn đề bất đồng và tranh chấp chủ quyền ở Biển
Đông?
Trả lời câu hỏi đó, Tiến sĩ Trần Công Trục nói rằng, mặc dù UNCLOS
có những quy định khá cụ thể và rõ ràng, nhưng vấn đề phức tạp, đáng quan ngại
hiện nay chính là tình trạng bất đồng, tranh chấp vẫn đang diễn ra trên các
vùng biển và đại dương, trong đó có khu vực Biển Đông. Tình trạng này sở dĩ
còn tồn tại do nhiều nguyên nhân, trong đó xuất phát từ tham vọng bá chủ trên
biển của một số quốc gia. Cùng với đó là do một số quy định của UNCLOS vẫn mang
tính nguyên tắc, chung chung.
Hiện nay, Việt Nam chủ trương giải quyết tranh chấp chủ quyền ở Biển
Đông thông qua các biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế, đặc biệt
là UNCLOS cũng như Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC). Tuy nhiên,
trên thực tế, một số quốc gia ven biển đã giải thích và áp dụng UNCLOS khác
nhau. Ngoài ra, có nước còn cố tình giải thích và áp dụng sai hoặc hoàn toàn
trái ngược để đưa ra các yêu sách, quyết định, phương thức hành xử phi lý, vi
phạm quyền và lợi ích hợp pháp của các quốc gia khác, thậm chí gây tác động
tiêu cực đến hiệu lực pháp lý của Công ước này.
Như phân tích của Tiến sĩ Trần Công Trục, hiện ở Biển Đông có hai
loại tranh chấp chủ yếu là tranh chấp chủ quyền lãnh thổ đối với quần đảo Hoàng
Sa, Trường Sa và tranh chấp về ranh giới các vùng biển, thềm lục địa do các quốc
gia ven Biển Đông khi vận dụng quy định của UNCLOS để xác định phạm vi các vùng
biển và thềm lục địa của mình đã tạo ra những vùng chồng lấn. Hai loại tranh chấp
này hoàn toàn khác nhau về nội dung, tính chất, phạm vi và nguyên nhân... Đó là
chưa kể các nguyên tắc pháp lý để xử lý, giải quyết các tranh chấp đó cũng rất
khác nhau. Tuy nhiên, chúng lại có mối quan hệ với nhau vì tồn tại trong cùng một
phạm vi địa lý và tác động qua lại của chúng, nhất là trong việc xác định phạm
vi các vùng biển, thềm lục địa.
Do đó, Tiến sĩ Trần Công Trục nhấn mạnh cần làm rõ vấn đề trên một
cách tách biệt. Đầu tiên, tranh chấp chủ quyền lãnh thổ đối với quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa thực chất là tình trạng tranh chấp chủ quyền lãnh thổ được tạo
nên bởi một số nước trong khu vực đã lợi dụng cơ hội và sử dụng vũ lực để chiếm
đóng một phần hay toàn bộ quần đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam ở Biển Đông.
Trong khi đó, tranh chấp trong việc hoạch định ranh giới biển và
thềm lục địa chồng lấn là loại tranh chấp được hình thành trong xu hướng thay đổi
có tính chất cách mạng về địa chính trị, địa kinh tế trên phạm vi toàn thế giới
với việc khoảng 36% diện tích biển và đại dương thế giới đã được đặt dưới chủ
quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của các quốc gia ven biển kể từ khi
UNCLOS ra đời. Kết quả là, trên thế giới có hơn 400 tranh chấp về ranh giới biển,
thềm lục địa cần được hoạch định, và tại một số khu vực biển, vấn đề hoạch định
ranh giới vẫn đang trong quá trình đàm phán hay vẫn còn để ngỏ.
“Nói vậy để thấy,
UNCLOS chỉ đóng vai trò căn cứ pháp lý nhằm giải quyết mọi tranh chấp về biển,
trong đó có tranh chấp do việc giải thích và áp dụng công ước này không đúng
hoàn toàn hay từng phần. Chẳng hạn việc vạch ra hệ thống đường cơ sở dùng để
tính chiều rộng lãnh hải ven bờ lục địa, đường cơ sở của các hải đảo, quần đảo
xa bờ... là nội dung thường có sự khác nhau nên đã tạo ra những vùng chồng lấn
to nhỏ khác nhau, cần được các bên tiến hành hoạch định theo những nguyên tắc
nhất định, tùy theo chế độ pháp lý của từng vùng biển và thềm lục địa do UNCLOS
quy định”, Tiến sĩ Trần Công Trục nhấn mạnh.
Cũng chính vì thế, UNCLOS không phải lúc nào cũng là “cây đũa thần”
có thể giải quyết được hết mọi tranh chấp trên biển như một số người vẫn nhầm lẫn.
Tuy nhiên, các hải đảo, quần đảo là những thành phần tồn tại giữa các vùng biển, có mối quan hệ đương nhiên với không gian biển, thềm lục địa, không những về vị trí địa lý mà còn về khía cạnh pháp lý. Từ đó, UNCLOS có những điều khoản quy định cụ thể thế nào là đảo, đá, bãi cạn, quần đảo, quốc gia quần đảo và hiệu lực của chúng trong việc xác định phạm vi các vùng biển và thềm lục địa có liên quan. Những khái niệm này được quy định rất rõ ràng và cụ thể, không ai có quyền hiểu sai hay có quyền đánh tráo chúng nhằm phục vụ cho lợi ích của mình.
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét