Mốc son chói lọi
Việt Nam và Lào chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao vào ngày
5-9-1962 cũng như ký Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác vào ngày 18-7-1977 là những mốc
son chói lọi đánh dấu bước phát triển trong lịch sử quan hệ đặc biệt Việt
Nam-Lào, khẳng định sự gắn bó vận mệnh của hai dân tộc trong đấu tranh giải
phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cùng phát triển đất nước phồn vinh
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Truyền thống gắn kết
Việt Nam và Lào là hai nước láng giềng, gần gũi bên nhau như làng
trên xóm dưới. Thành ngữ Việt Nam có câu láng giềng "tối lửa tắt đèn có
nhau”, tương tự như cách nhân dân Lào gọi nhân dân Việt Nam là “bankay
huonkhieng” (bản kề, nhà cạnh). Nhà thơ Lào Vilay Keomany trong bài thơ “Hai
anh em sinh đôi” cũng từng miêu tả rất sinh động: Anh ở bên kia, tôi ở bên này/
Chung một dãy Trường Sơn hùng vĩ.
Mối quan hệ gắn kết anh em giữa hai dân tộc vốn được hình thành và
hun đúc trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước, giữ nước ngày càng mở rộng,
phát triển, được nâng lên về chất kể từ khi có sự ra đời và lãnh đạo sáng suốt
của Đảng Cộng sản Đông Dương, sau này là Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân
dân Cách mạng Lào.
Những chủ trương đúng đắn của Đảng Cộng sản Đông Dương đã soi đường
cho nhân dân Việt Nam và nhân dân Lào phát huy mạnh mẽ tinh thần độc lập, tự chủ
và sức mạnh của mỗi dân tộc, đồng thời tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa
nhân dân hai nước cùng tiến lên trong sự nghiệp đánh đuổi kẻ thù xâm lược.
“Hai nước Lào
và Việt Nam có truyền thống yêu thương gắn bó, hỗ trợ lẫn nhau một cách mật thiết,
đồng cam cộng khổ trong suốt nhiều thập niên đấu tranh cứu quốc và bảo vệ Tổ quốc.
Hai dân tộc đã cùng nhau sát cánh chiến đấu, từng bước đánh thắng kẻ thù để tới
ngày 2-9-1945, nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời và ngày 12-10-1945, Chính
phủ Lào Issara tuyên bố nền độc lập của Lào”, Đại sứ Lào tại Việt Nam Sengphet
Houngboungnuang khẳng định với phóng viên Báo Quân đội nhân dân.
Sự ra đời của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa và Chính phủ
Lào Issara là cơ sở đưa tình đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau giữa hai nước Việt
Nam-Lào lên tầm liên minh chiến đấu. Ngay sau khi giành được chính quyền, Chính
phủ hai nước đã ký Hiệp ước tương trợ Lào-Việt vào ngày 16-10-1945 và Hiệp định
về tổ chức Liên quân Lào-Việt vào ngày 30-10-1945-những văn kiện chính thức đầu
tiên tạo cơ sở pháp lý để hai nước Việt Nam-Lào hợp tác và đoàn kết chiến đấu
chống kẻ thù chung.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, mối quan hệ đoàn kết
chiến đấu chống kẻ thù chung của quân và dân hai nước tiếp tục được củng cố và
phát triển ngày càng sâu đậm. Sau những thắng lợi quan trọng cả về chính trị,
quân sự, ngoại giao của cách mạng Lào, việc Hiệp định Geneva năm 1962 về Lào
được ký kết mở ra thời kỳ phát triển mới cho cách mạng hai nước Lào và Việt
Nam. Với thời cơ và điều kiện thuận lợi đó, hai nước chính thức thiết lập quan
hệ ngoại giao vào ngày 5-9-1962.
Sự kiện này, như đánh giá của Đại sứ Việt Nam tại Lào Nguyễn Bá
Hùng, đánh dấu một cột mốc quan trọng trong lịch sử quan hệ Việt Nam-Lào thời kỳ
hiện đại. “Ngay sau khi thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam, tại cuộc họp
với quân đội Lào, Hoàng thân Souphanouvong đã nói: “Sau khi đặt quan hệ ngoại
giao với các nước, chúng ta có thêm nhiều bạn bè, nhưng người bạn cùng sống chết,
chung một chiến hào với ta chỉ có Việt Nam”. Kể từ đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng,
nhân dân hai nước Việt Nam-Lào anh em càng gắng sức hỗ trợ nhau, kề vai sát
cánh trong công cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung”, Đại sứ Nguyễn Bá Hùng nhấn
mạnh khi trả lời phỏng vấn phóng viên Báo Quân đội nhân dân.
Xác định “Đông Dương là một chiến trường”, cuộc kháng chiến chống
kẻ thù chung trong giai đoạn 1945-1975 chứng kiến hai dân tộc Việt Nam và Lào
luôn kề vai sát cánh bên nhau, đồng cam cộng khổ, vừa là thực hiện nghĩa vụ quốc
tế cao cả, vừa là vì lợi ích của mỗi quốc gia như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng
định: “Giúp bạn là tự giúp mình”.
Bất chấp những thử thách khắc nghiệt, đầy hy sinh, gian khổ, dưới
sự lãnh đạo của hai Đảng, liên minh đoàn kết chiến đấu đặc biệt Việt Nam-Lào đã
anh dũng đưa sự nghiệp cách mạng giành độc lập dân tộc của hai nước đi tới thắng
lợi hoàn toàn vào năm 1975 với chiến thắng ngày 30-4-1975 của nhân dân Việt Nam
và sự ra đời của nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào vào ngày 2-12-1975. Qua quá
trình liên minh đoàn kết chiến đấu, hai dân tộc Việt Nam-Lào càng thêm tin tưởng,
gắn bó, tạo nền móng vững chắc để phát triển quan hệ đoàn kết đặc biệt trong thời
kỳ lịch sử mới.
Phù hợp với chuyển biến của
thời cuộc
Sau khi hai nước được giải phóng hoàn toàn vào năm 1975, quan hệ
Việt Nam-Lào bước sang một trang hoàn toàn mới: Từ liên minh chiến đấu chung một
chiến hào sang hợp tác toàn diện giữa hai quốc gia có độc lập, chủ quyền. Lúc bấy
giờ, Việt Nam và Lào cùng phải đối diện với không ít khó khăn. Theo Đại sứ Nguyễn
Bá Hùng, hai nước đều phải ra sức khắc phục hậu quả nặng nề của chiến tranh; nền
kinh tế của Việt Nam và Lào về cơ bản đều là nền kinh tế nông nghiệp có trình độ
canh tác, năng suất và sản lượng rất thấp; tư duy lãnh đạo kinh tế còn mang nặng
tính tập trung bao cấp từ thời chiến...
Tình hình quốc tế lại có những chuyển biến phức tạp. Các thế lực
thù địch trong nước và bên ngoài câu kết, tìm cách chia rẽ Lào với Việt Nam, Việt
Nam với Lào. Đặc biệt, sau khi quân đội và chuyên gia Việt Nam rút về nước đầu
năm 1976 theo thỏa thuận giữa hai Đảng và Chính phủ hai nước, các thế lực phản
động trong nước Lào, với sự hỗ trợ của các thế lực thù địch quốc tế, đã hoạt động
nổi dậy ở nhiều nơi, gây nên những nguy cơ bất ổn về an ninh chính trị của Lào.
“Tình hình đó
đặt ra yêu cầu phải phát triển và thắt chặt quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào phù hợp
với chuyển biến của thời cuộc”, Đại sứ Nguyễn Bá Hùng nêu rõ.
Kết quả, nhân chuyến thăm chính thức Lào của đoàn đại biểu cấp cao
Đảng và Chính phủ Việt Nam do Tổng Bí thư Lê Duẩn và Thủ tướng Phạm Văn Đồng dẫn
đầu, hai nước đã ký kết Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác vào ngày 18-7-1977.
Hiệp ước nêu rõ hai bên cam kết ra sức bảo vệ và phát triển mối
quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, không ngừng tăng cường tình đoàn kết và tin cậy,
hợp tác lâu dài và giúp đỡ lẫn nhau về mọi mặt trên tinh thần của chủ nghĩa quốc
tế vô sản và theo nguyên tắc hoàn toàn bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau, không
can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.
“Hiệp ước có
giá trị trong 25 năm và sẽ được mặc nhiên gia hạn thêm từng 10 năm nếu một
trong hai bên không thông báo cho bên kia muốn hủy bỏ Hiệp ước ít nhất là một
năm trước khi hết hạn. Đây là Hiệp ước toàn diện, mang tính chiến lược lâu dài,
tạo cơ sở chính trị và pháp lý quan trọng để củng cố và tăng cường lâu dài tình
đoàn kết, mối quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào.
Việc ký kết Hiệp ước là mốc lịch sử quan trọng đánh dấu bước ngoặt mới trong quan hệ giữa hai nước, đồng thời có ý nghĩa quốc tế quan trọng, nêu cao tinh thần quốc tế trong sáng giữa hai nước đang cùng hướng tới mục tiêu chủ nghĩa xã hội và phát huy ảnh hưởng tích cực trong khu vực”, Đại sứ Nguyễn Bá Hùng khẳng định. (còn nữa)
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét