Quan điểm “bốn không” của Đảng - thông điệp hòa bình
(QĐND) Nhằm thể hiện sự
công khai, minh bạch chính sách quốc phòng, năm 2019 Việt Nam tiếp tục công bố
Sách trắng Quốc phòng. Và sự kiện đó được dư luận quốc tế quan tâm, đánh giá
cao. Cuốn sách có nhiều nội dung quan trọng, với tinh thần cơ bản là: xây dựng
nền quốc phòng toàn dân vững mạnh toàn diện để bảo vệ vững chắc Tổ quốc; thực
thi chính sách quốc phòng mang tính chất hòa bình, tự vệ. Đặc biệt, trong đó khẳng
định rõ: Việt Nam chủ trương không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với
nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng
lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng
vũ lực trong quan hệ quốc tế.
Đây chính là quan điểm “Bốn không” của Đảng; là thông điệp hòa
bình, thể hiện sâu sắc khát vọng hòa bình của dân tộc Việt Nam gửi tới tất cả
các quốc gia trên thế giới.
Câu hỏi đặt ra là, tại sao khẳng định quan điểm “Bốn không” nêu
trên là thông điệp hòa bình? Nói như thế liệu có mâu thuẫn không? Câu trả lời
là đúng như vậy! Và không hề có sự mâu thuẫn. Bởi vì, thực chất quan điểm “Bốn
không” đã thể hiện sự nhất quán nhằm triệt tiêu hoàn toàn mầm mống chiến tranh
từ phía Việt Nam; không cho bất cứ ai có thể lợi dụng Việt Nam, lãnh thổ Việt
Nam để xâm lược hoặc gây phương hại nước khác. Từ thực tiễn khắc nghiệt của đất
nước, Việt Nam thấu hiểu hòa bình không phải là mỹ từ để ngợi ca, mà là mục
tiêu cao cả của nhân loại chân chính. Không một ai trong số những người có
lương tri trên trái đất này lại không yêu chuộng hòa bình, đấu tranh vì hòa
bình. Cũng vì thế mà nhân dân Việt Nam và các dân tộc từng bị áp bức, nô dịch bởi
chủ nghĩa thực dân, đế quốc đã kiên quyết đứng lên đấu tranh đến cùng, không
khoan nhượng để giành độc lập, tự do, hòa bình cho dân tộc mình – thứ quý đến mức
“không có gì quý hơn” theo cách nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Để có được nó dân
tộc Việt Nam đã phải trả giá bằng máu cùng sự đau thương, mất mát của nhiều thế
hệ. Ngay trong cuộc sống hòa bình hôm nay, trên dải đất hình chữ “S” vẫn hằn
sâu những vết thương chiến tranh, di chứng chiến tranh. Vẫn còn đó những Mẹ Việt
Nam anh hùng, gia đình thương binh, liệt sĩ, nạn nhân chất độc da cam,… họ là
những chứng nhân của lịch sử, hiện thân của chiến tranh đã vượt lên số phận,
không những có ích cho đời mà còn cho cả xã hội. Họ thực sự trở thành những tâm
hồn cao đẹp của dân tộc Việt Nam đã tỏa sáng, được kết tinh bởi khát vọng hòa
bình. Không phải ngẫu nhiên, ngay trong cuộc chiến tranh chính nghĩa đó của
nhân dân ta chống chiến tranh xâm lược phi nghĩa của tên đế quốc đầu sỏ, Chủ tịch
Hội đồng hòa bình thế giới Romesh Chandra đã khâm phục, ngợi ca: “Việt Nam là
lương tri của thời đại”. Cũng không phải ngẫu nhiên mà Hà Nội – Thủ đô của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, vốn bị tàn phá nặng nề trong chiến tranh
phá hoại miền Bắc bằng không quân của đế quốc Mỹ lại được UNESCO trao tặng danh
hiệu “Thành phố vì hòa bình”, bạn bè quốc tế vinh danh “Thủ đô của phẩm giá con
người”. Thật đáng tự hào!
Việt Nam là thế. Một dân tộc biết chiến đấu, dám hy sinh bởi khát
vọng hòa bình, vì hòa bình và quyết biến nó thành hiện thực. Hẳn nhiên, dân tộc
đó hiểu rõ giá trị của hòa bình. Trước đây là thế và bây giờ vẫn vậy, trong khả
năng của mình, Việt Nam đã và đang làm tất cả những gì có thể để gìn giữ hòa
bình cho đất nước; đồng thời, đóng góp tích cực vào đảm bảo môi trường hòa bình
trong khu vực và trên thế giới.
Quan điểm “Bốn không” trong “Sách trắng Quốc phòng Việt Nam năm
2019” là thông điệp hòa bình và cũng là cam kết của Đảng, Nhà nước và Nhân dân
Việt Nam gửi tới các quốc gia trên thế giới. Trước sau như một, Việt Nam muốn
là bạn, là đối tác tin cậy của các quốc gia trong quan hệ quốc tế, sẵn sàng mở
rộng quan hệ hợp tác, kể cả hợp tác quốc phòng, trên cơ sở không phân biệt sự
khác nhau về chế độ chính trị và trình độ phát triển. Việt Nam không chấp nhận
quan hệ hợp tác dưới bất kỳ điều kiện áp đặt hoặc sức ép nào. Từ lịch sử đến hiện
tại và tương lai, Việt Nam chưa từng và sẽ không bao giờ gây hấn hay xâm lược
nước khác, không sử dụng vũ lực hay đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế.
Đó là tôn chỉ, là truyền thống văn hóa lâu đời đã trở thành cốt cách của dân tộc
Việt Nam. Như vậy, với cam kết “Bốn không”, Việt Nam đã chủ động bày tỏ thẳng
thắn thái độ của mình xuất phát từ khát vọng hòa bình, vì hòa bình của chính
dân tộc mình cũng như hòa bình của nhân loại.
Hòa bình là không gian sinh tồn của con người theo đúng nghĩa đen
của mỹ từ này. Thực tiễn chỉ ra rằng, để có được hòa bình là điều không dễ,
nhưng giữ vững được hòa bình còn khó hơn. Đặc biệt, trong bối cảnh phức tạp của
tình hình thế giới hiện nay, khi mà các mối quan hệ đan xen lợi ích với những
toan tính chiến lược rất khó nhận biết của các nước lớn. Vì lợi ích ích kỷ, họ
bất chấp mọi luân thường đạo lý, sẵn sàng “đi đêm”, “mặc cả” sau lưng người
khác, thì việc giữ vững hòa bình càng trở nên không đơn giản với mọi quốc gia.
Việt Nam đủ tỉnh táo để nhận rõ điều đó và biết rằng, nếu chỉ với quan điểm “Bốn
không” sẽ không thể bảo vệ được nền hòa bình của đất nước, mà phải nỗ lực thực
hiện bằng nhiều phương thức kết hợp, trong đó không thể thiếu việc tăng cường sức
mạnh quốc phòng. Đề cập về vấn đề này trong tâm trí những người có lương tri lại
dấy lên nỗi đau khi mà chiến sự Nga - Ukraine đang diễn ra khốc liệt, với biết
bao người dân vô tội ở đó đang đổ máu, phải tạm rời bỏ đất nước mình. Đã có nhiều
ý kiến khác nhau về căn nguyên của cuộc chiến này, nhưng đâu là sự thật thì ngoại
trừ người trong cuộc chỉ có “trời mới biết”. Tuy nhiên, có điều chắc chắn mà ai
cũng biết là sẽ không có người chiến thắng, có chăng chỉ những kẻ “đục nước béo
cò”.
Từ thực tiễn đó, soi chiếu vào chính sách quốc phòng của Việt Nam
mới thấy hết sự đúng đắn, sáng suốt, cũng như vị trí, ý nghĩa và tầm quan trọng
chiến lược của quan điểm “Bốn không” mà toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang
thực hiện đối với sự tồn vong của đất nước, của chế độ, sự an nguy của dân tộc.
Điều đó cho thấy tư duy mới rất sáng tạo của Đảng ta về bảo vệ Tổ quốc trong
tình hình mới; đồng thời, một lần nữa khẳng định sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố
quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh giải
phóng dân tộc trước đây cũng như trong công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc hiện
nay. Quan điểm “Bốn không” cũng là cơ sở, điều kiện quan trọng để giữ vững môi
trường hòa bình, ổn định ở khu vực và trên thế giới. Điều đó càng thể hiện rõ,
quan điểm “Bốn không” trong chính sách quốc phòng của Việt Nam chính là thông
điệp và khát vọng hòa bình mà dân tộc ta gửi tới các quốc gia trên thế giới.
Quan điểm “Bốn không” một mặt là thông điệp hòa bình, mặt khác còn
là kế sách ngăn ngừa chiến tranh, bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa” của dân tộc
ta. Bởi thế, nó rất cần thiết và quan trọng, nhất là trong bối cảnh tình hình
thế giới có nhiều biến động, phức tạp, khó lường hiện nay. Dẫu vậy, chúng ta
không tuyệt đối hóa quan điểm đó, hay coi đó là liệu pháp duy nhất chữa trị
“căn bệnh nan y”; trái lại nó phải được kết hợp đồng bộ với nhiều phương thức hữu
hiệu khác. Chỉ như vậy mới bảo vệ được vững chắc Tổ quốc, gìn giữ được hòa bình
cho đất nước. Cho nên cần phải thường xuyên tăng cường sức mạnh quốc phòng trên
cơ sở sức mạnh tổng hợp của cả nước, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp
với sức mạnh của thời đại. Đó là quan điểm bao trùm của Đảng, Nhà nước và Nhân
dân ta xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam.
Như đã đề cập, khi thực hiện tăng cường sức mạnh quốc phòng, Việt
Nam khẳng định rõ chính sách quốc phòng mang tính chất hòa bình, tự vệ. Việt
Nam tăng cường sức mạnh quốc phòng chỉ với mục đích duy nhất là để tự vệ, bảo vệ
Tổ quốc chứ không phải là chạy đua vũ trang như một số kẻ thù địch từng rêu
rao, xuyên tạc. Nói cách khác, việc làm đó của Việt Nam không nhằm đe dọa, xâm
lược bất cứ quốc gia nào mà chỉ nhằm ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh; đồng
thời, sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược dưới mọi quy mô, hình thức của
các thế lực thù địch nếu chúng liều lĩnh tiến hành. Bởi chúng ta biết sức mạnh
quốc phòng là yếu tố cốt lõi để bảo vệ Tổ quốc, gìn giữ hòa bình cho đất nước.
Nếu chúng ta thiếu sức mạnh quốc phòng, không đủ khả năng tự vệ, thì nguy cơ xảy
ra chiến tranh đối với nước ta sẽ lớn; ngược lại, nếu có tiềm lực, sức mạnh quốc
phòng, khả năng tự vệ cao thì hẳn nhiên nguy cơ bị xâm lược sẽ thấp. Nếu kẻ nào
có dã tâm xâm lược đối với nước ta thì chúng cũng phải dè chừng. Cho nên, đối với
Việt Nam, nói tăng cường sức mạnh quốc phòng trước hết nhằm ngăn ngừa, đẩy lùi
nguy cơ chiến tranh là vì thế.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình mọi mặt cả quốc tế và
trong nước, Đảng ta nhận định trong những năm tới ít có khả năng xảy ra chiến
tranh quy mô lớn đối với nước ta. Nhận định đó rất quan trọng và đáng mừng.
Nhưng “ít” không có nghĩa là không còn khả năng đó, hay nói cách khác bị loại
trừ hoàn toàn. Cho nên, dù khả năng đó là rất nhỏ thì chúng ta cũng không được
phép mất cảnh giác, mà phải thường xuyên chăm lo tăng cường quốc phòng, an
ninh. Đó là giải pháp không thể thiếu để bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi
tình huống, gìn giữ cuộc sống hòa bình, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.
Dân tộc Việt Nam có truyền thống nhân văn cao đẹp, khát khao hòa bình không chỉ cho đất nước mình mà còn cho tất cả các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Cùng với việc khẳng định rõ quan điểm “Bốn không” – thông điệp hòa bình, Đảng, Nhà nước và toàn thể dân tộc Việt Nam đã và đang nỗ lực góp phần gìn giữ hòa bình với tư cách là “thành viên tích cực của cộng đồng quốc tế”. Dưới lá cờ Liên hợp quốc, những cán bộ, chiến sĩ quân y, công binh,… của Việt Nam không quản ngại hy sinh, gian khổ đang ngày đêm thực hiện nhiệm vụ gìn giữ hòa bình ở Nam Sudan và Abyei. Tinh thần đoàn kết đấu tranh cho hòa bình, vì hòa bình đang tỏa sáng ở Châu Phi và nhiều nơi trên thế giới sẽ đưa các quốc gia xích lại gần nhau hơn trên con đường hướng tới tương lai tốt đẹp.
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét