Đảm bảo ở mức cao nhất các quyền của đồng bào dân tộc thiểu số
(VOV) - Việt Nam là quốc
gia đa dân tộc, với 54 dân tộc cùng sinh sống. Trong đó có 53 dân tộc thiểu số,
với gần 14 triệu người (chiếm khoảng 14,3% dân số cả nước).
Ngày 9/8 hằng năm là Ngày Quốc tế về Dân tộc bản địa (IDWIP). Đây
là ngày lễ quốc tế được Liên hợp quốc chọn ra kỷ niệm hằng năm nhằm tăng cường
sự quan tâm của cộng đồng thế giới đến quyền của các dân tộc bản địa. Đây cũng
là dịp để nhìn lại thành quả Việt Nam đã và đang nỗ lực xây dựng, thực hiện và
giám sát các chính sách phát triển kinh tế - xã hội nhằm nâng cao đời sống vật
chất, văn hóa, tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, những cộng
đồng dân tộc mang đậm bản sắc văn hóa Việt Nam.
Việt Nam là quốc gia đa dân tộc với 54 dân tộc anh em cùng sinh sống.
Trong đó có 53 dân tộc thiểu số, với gần 14 triệu người (chiếm khoảng 14,3% dân
số cả nước). Đồng bào các dân tộc thiểu số phần lớn sinh sống ở miền núi, vùng
sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn.
Trong suốt quá trình phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước Việt
Nam luôn quan tâm đến vấn đề dân tộc, nhất là vấn đề bình đẳng dân tộc, đoàn kết
dân tộc trong hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách của mình.
Tại Đại hội lần thứ XIII của Đảng, Việt Nam tiếp tục khẳng định vị
trí chiến lược của chính sách đoàn kết các dân tộc trên cơ sở “bảo đảm các dân
tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển”. Trong bối cảnh
đất nước đang đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc
tế sâu rộng, các chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước đã và đang
cho thấy nỗ lực của Việt Nam trong việc bảo đảm quyền bình đẳng, cơ hội phát
triển của đồng bào các dân tộc thiểu số và miền núi trên tinh thần "anh em
như thể chân tay".
Việc chấp thuận và triển khai các khuyến nghị theo Cơ chế rà soát
định kỳ phổ quát về quyền con người (UPR) chu kỳ III của Hội đồng Nhân quyền
Liên hợp quốc, liên quan đến các quyền bình đẳng cho dân tộc thiểu số và miền
núi, là một trong những nỗ lực đó. Các khuyến nghị này tập trung vào lĩnh vực
chống sự phân biệt đối xử, bảo đảm các quyền cơ bản cho người dân tộc thiểu số
như giáo dục, văn hóa, tín ngưỡng tôn giáo, phát triển kinh tế - xã hội.
Bảo đảm quyền tiếp cận giáo dục đối với đồng bào các dân tộc thiểu
số đang là mục tiêu cơ bản trong chính sách phát triển của Việt Nam. Pháp luật
Việt Nam quy định Nhà nước ưu tiên phát triển giáo dục ở miền núi, hải đảo,
vùng dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn. Hiện
nay có 5.766 trường mầm non và 100% số trường, nhóm lớp thực hiện chương trình
giáo dục mầm non mới. Các tỉnh vùng dân tộc thiểu số và miền núi đều được công
nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi, đạt chuẩn phổ cập giáo
dục tiểu học và phổ cập trung học cơ sở.
Trong những năm qua, Chính phủ đã có nhiều chương trình, chính
sách, dự án đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu ở vùng đồng bào dân tộc
thiểu số và miền núi như: Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững
giai đoạn 2016-2020, Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới,
Chương trình 135…Công tác bảo tồn, phát huy tiếng nói, chữ viết của nhiều dân tộc
thiểu số ngày càng được chú trọng. Hằng năm, Việt Nam tổ chức nhiều ngày hội
văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao của các dân tộc đặc trưng cho từng vùng, miền.
Chương trình phát thanh, truyền hình bằng tiếng dân tộc được chú trọng hơn,
tăng cả số lượng đài và thời lượng phát sóng. Bên cạnh đó, các ấn phẩm báo chí
phong phú, đa dạng đã góp phần chuyển tải chủ trương đường lối, chính sách pháp
luật của Đảng và Nhà nước đến với đồng bào dân tộc thiểu số và nâng cao mức hưởng
thụ văn hóa của người dân.
Hiện mạng lưới y tế ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi tiếp tục
phát triển, hệ thống bệnh viện tỉnh - huyện và trạm y tế xã đã được quan tâm đầu
tư. Nhờ đó, đồng bào dân tộc thiểu số, phụ nữ, trẻ em dưới 6 tuổi, người dân
vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo... ngày càng có nhiều cơ hội
được tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khoẻ cơ bản. Mạng lưới y tế cơ sở vùng dân tộc
thiểu số và miền núi ngày càng hoàn thiện; cơ sở vật chất và trình độ đội ngũ
y, bác sỹ ngày một nâng lên. Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế
xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030 cũng đưa
ra mục tiêu và tập trung đầu tư phát triển chăm sóc sức khỏe, phát triển nguồn
nhân lực vùng dân tộc thiểu số và miền núi một cách toàn diện trong giai đoạn tới.
Hiện Chính phủ Việt Nam đã ban hành Chương trình “Bảo vệ và phát
triển các dân tộc thiểu số rất ít người giai đoạn 2021-2030” tập trung vào các
nhiệm vụ duy trì, phát triển và nâng cao vị thế của các dân tộc thiểu số rất ít
người. Cụ thể là xóa đói, giảm nghèo, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần một cách bền vững nhằm giảm dần sự chênh lệch về khoảng cách phát triển
giữa đồng bào các dân tộc thiểu số rất ít người với các đồng bào dân tộc thiểu
số khác trong vùng.Chính phủ cũng thực thi việc chống phân biệt đối xử và bất
bình đẳng giữa các nhóm dân tộc trong tôn giáo. Chính quyền địa phương vùng đồng
bào dân tộc thiểu số và miền núi luôn thực hiện nhất quán chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước là tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo và quyền tự do không theo tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, quan tâm
tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tôn giáo hoạt động theo đúng quy định của
pháp luật. Đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào tôn giáo được chăm lo. Các
nhu cầu chính đáng về tín ngưỡng, tôn giáo đã được các cấp chính quyền quan tâm
hướng dẫn, giải quyết.
Đảng và Nhà nước Việt Nam hiện đặc biệt chú trọng phát triển cơ sở hạ tầng vùng sâu, vùng xa và vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Nghị quyết số 120/2020/QH14 ngày 19/6/2020 của Quốc hội, Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030 đã được triển khai xây dựng gồm 10 dự án, tiểu dự án phát triển cơ sở hạ tầng trên địa bàn đặc biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Các hạng mục đầu tư cơ sở hạ tầng thiết yếu, phục vụ sản xuất, đời sống trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi bao gồm công trình giao thông nông thôn phục vụ sản xuất, kinh doanh và dân sinh; công trình cung cấp điện phục vụ sinh hoạt và sản xuất, kinh doanh trên địa bàn thôn, bản; trạm chuyển tiếp phát thanh xã, nhà sinh hoạt cộng đồng; trạm y tế xã đạt chuẩn…sẽ tiếp tục được đầu tư phát triển trong thời gian tới.
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét