Phát huy bài học kinh nghiệm xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 để lại cho toàn Đảng,
toàn dân và toàn quân ta nhiều bài học kinh nghiệm quý báu. Trong đó, bài học về
xây dựng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vẫn còn nguyên giá trị, cần
được nghiên cứu, vận dụng sáng tạo và nhân lên trong bối cảnh hiện nay.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là kết quả của sự vận động cách
mạng gian khổ trong suốt 15 năm, kể từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời; đồng
thời, hội tụ nhiều yếu tố khách quan và chủ quan. Song, một trong những yếu tố
quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến thắng lợi là Đảng đã thành công trong việc
khơi dậy và phát huy sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân tộc.
Trong thời kỳ vận động Cách mạng Tháng Tám (1939-1945), trước nguy
cơ tồn vong của dân tộc, Đảng khẳng định: “Trong lúc này nếu không giải quyết
được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân
tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà
quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được” (1).
Nhằm tập hợp đông đảo nhân dân, tranh thủ mọi lực lượng yêu nước
chống thực dân, phát-xít, giành độc lập cho dân tộc, Trung ương Đảng quyết định
thành lập Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Mặt trận Việt Minh nhằm tập hợp
sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Mặt trận Việt Minh công bố Tuyên
ngôn, Chương trình và Điều lệ, nêu cao ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân tộc.
Tuyên ngôn chủ trương “…liên hiệp hết thảy các giới đồng bào yêu
nước, không phân biệt giàu nghèo, già trẻ, trai gái, không phân biệt tôn giáo
và xu hướng chính trị, đặng cùng nhau mưu cuộc dân tộc giải phóng và sinh tồn”
(2). Tuyên ngôn và Chương trình hành động của Mặt trận Việt Minh đã đáp ứng
nguyện vọng thiết tha của toàn thể dân tộc nên đã tập hợp được sự tham gia của
các tầng lớp nhân dân: phú, sĩ, nông, công, thương, trí thức, phụ nữ, thanh
niên, học sinh, sinh viên, thiếu niên, nhi đồng, các dân tộc trên khắp mọi miền
đất nước…
Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp ở Võng La (năm 1943)
đề ra chủ trương liên minh với tất cả các đảng phái, các nhóm yêu nước ở trong
và ngoài chưa gia nhập Mặt trận Việt Minh, đẩy mạnh công tác vận động công
nhân, nông dân, binh lính, thanh niên, phụ nữ, tư sản, địa chủ yêu nước, các
dân tộc thiểu số, Hoa kiều, lập ra Hội Văn hóa cứu quốc ở các thành phố nhằm
đoàn kết các nhà trí thức và các nhà văn hóa.
Nhờ chủ trương đúng đắn đó mà Đảng đã phát huy được sức mạnh tổng
hợp của toàn dân tộc Việt Nam, không phân biệt già, trẻ, gái, trai, dân tộc,
tôn giáo nhất tề đứng lên đánh đuổi thực dân, phát-xít, giành độc lập dân tộc.
Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 là biểu tượng sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc,
là minh chứng sinh động về sức mạnh đồng thuận của nhân dân cả nước dưới sự
lãnh đạo của Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh nhằm “đem sức ta mà tự giải phóng cho
ta”.
Phát huy bài học kinh nghiệm về xây dựng khối đại đoàn kết toàn
dân tộc trong Cách mạng Tháng Tám, bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp, với
quyết tâm: “thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định
không chịu làm nô lệ”(3) và sự đồng lòng của toàn dân tộc, với tinh thần: “Bất
kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng
phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu
Tổ quốc” (4), toàn thể dân tộc Việt Nam một lần nữa đứng lên đấu tranh giành lại
nền độc lập, giải phóng dân tộc.
Trên cơ sở đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, tự lực cánh
sinh, với phương châm: vừa kháng chiến, vừa kiến quốc; vừa chiến đấu, vừa xây dựng
lực lượng; vừa kháng chiến, vừa củng cố hậu phương và với phương thức tác chiến
thích hợp, quân và dân ta đã lần lượt đánh bại các chiến lược quân sự của kẻ
thù.
Sau chín năm trường kỳ kháng chiến, trải qua hơn 3.000 ngày đêm
chiến đấu đầy hy sinh, gian khổ, nhưng vô cùng anh dũng và tự hào, nhân dân Việt
Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng đã làm nên chiến thắng Điện Biên “lừng lẫy năm
châu, chấn động địa cầu”.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, với niềm tin sắt đá
“...dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi
hoàn toàn” (5), dân tộc Việt Nam một lần nữa đứng lên đánh đuổi đế quốc Mỹ và
bè lũ tay sai. Sự đồng lòng của cả dân tộc đã làm nên thắng lợi vĩ đại trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền nam, thu non sông về
một mối, mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc-kỷ nguyên độc lập, thống nhất,
cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ là minh chứng hùng hồn của
sức mạnh đoàn kết của dân tộc Việt Nam. Cội nguồn của thắng lợi đó là do Đảng
và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thấy sức mạnh và lực lượng đoàn kết của nhân
dân là vô cùng vĩ đại, bởi: “Dễ mười lần không dân cũng chịu, Khó trăm lần dân
liệu cũng xong” (6) và “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, Thành công, thành
công, đại thành công” (7).
Kế thừa và phát huy bài học kinh nghiệm về xây dựng khối đại đoàn
kết toàn dân tộc, trong thời kỳ đổi mới, Đảng tiếp tục khẳng định: “Đại đoàn kết
toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực và nguồn
lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” (8).
Đường lối chiến lược quan trọng đó luôn được thực hiện, cụ thể hoá
thông qua hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng,
phối hợp và thống nhất hành động của toàn dân nhằm khơi dậy mạnh mẽ tinh thần
yêu nước, sức mạnh nội sinh của dân tộc; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; phát huy ý chí tự cường dân tộc để xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Các phong trào thi đua yêu nước được Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các tổ chức chính trị-xã hội phát động đã nhận được sự hưởng ứng nhiệt tình, đầy
tinh thần trách nhiệm của các tầng lớp nhân dân.
Đặc biệt, trong hai năm 2020 và 2021, hưởng ứng lời kêu gọi của Tổng
Bí thư, các cấp, các ngành, các địa phương đã huy động sức mạnh toàn dân, khơi
dậy tinh thần đoàn kết, truyền thống yêu nước, tương thân, tương ái, nhân văn,
nghĩa tình của dân tộc trong cuộc chiến chống dịch Covid-19 cũng như trong việc
giúp đỡ, ủng hộ đồng bào miền trung khắc phục, vượt qua nhiều mất mát, đau
thương do hậu quả của những đợt bão, lũ lụt liên tiếp xảy ra.
Qua các phong trào thi đua yêu nước thiết thực, rộng khắp ở mọi cấp,
mọi ngành, đã xuất hiện nhiều tấm gương tiêu biểu của các tầng lớp nhân dân. Đặc
biệt là những tấm gương của đội ngũ y, bác sĩ, chiến sĩ quân đội, công an và sự
chung tay, góp sức của cả hệ thống chính trị và mỗi người dân cả nước trong cuộc
chiến chống dịch Covid-19 để “không một ai bị bỏ lại phía sau”, chính là biểu
hiện sinh động của tinh thần yêu nước của các tầng lớp nhân dân trong bối cảnh
mới.
Thực tiễn phong phú của những năm phòng, chống dịch Covid-19 là
minh chứng sinh động khẳng định: Càng khó khăn, thử thách, truyền thống và tinh
thần yêu nước, đoàn kết, gắn bó của mỗi người dân Việt Nam được hun đúc từ bao
đời, càng được khơi dậy mạnh mẽ, tỏa sáng trên tinh thần: “Yêu nước thì việc gì
có lợi cho nhân dân, dù khó mấy cũng phải ra sức làm cho kỳ được. Điều gì có hại
cho nhân dân, dù khó mấy cũng phải ra sức trừ cho kỳ hết” (9).
Trong bối cảnh hiện nay, để thực hiện khát vọng xây dựng một nước
Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng
đề ra, đòi hỏi các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
chính trị-xã hội cần quán triệt phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”; cụ thể hóa bài học kinh nghiệm: “Nhân dân là
trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Ngoài ra, các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội cần đẩy mạnh các cuộc vận động, các phong trào thi đua nhằm khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, chú trọng phát huy dân chủ, bảo đảm sự bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau trong các tầng lớp nhân dân, đóng góp công sức, trí tuệ xây dựng đất nước Việt Nam phát triển nhanh, bền vững, sánh vai các quốc gia, dân tộc trên thế giới như sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng mong ước.
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét