Vạch trần thủ đoạn cắt rời tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin
Cắt rời tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác – Lênin là thủ đoạn
chống phá tinh vi, rất thâm hiểm của các thế lực thù địch, nhằm phủ nhận nền tảng
tư tưởng của Đảng. Vì vậy, chúng ta phải luôn nêu cao cảnh giác, tích cực đấu
tranh vạch trần sự sai trái của thủ đoạn này.
Xóa bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam là mục tiêu
xuyên suốt mà các thế lực thù địch ra sức thực hiện đối với cách mạng nước ta,
nhằm làm biến chất Đảng ta, tiến tới xóa bỏ sự hiện diện và vai trò lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội.
Để đạt được mục tiêu đó, một trong những thủ đoạn thâm độc mà họ
thực hiện là cắt rời tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác – Lênin, bằng nhiều
lý lẽ ngụy biện rất tinh vi, xảo quyệt. Một mặt, họ viện dẫn thực tiễn sự sụp đổ
của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới vào cuối thế kỷ trước để tuyên bố: “Chủ
nghĩa Mác – Lênin đã hết thời, cho nên không cần nhắc đến chủ nghĩa Mác – Lênin
khi nói đến nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam”(!). Mặt khác, họ đối
lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác – Lênin, khi cho rằng: “Hồ Chí Minh
theo chủ nghĩa dân tộc, nên tư tưởng Hồ Chí Minh không có mối liên hệ gì với chủ
nghĩa Mác – Lênin”(!). Tinh vi, khôn khéo hơn, họ không ra mặt bác bỏ chủ nghĩa
Mác – Lênin, nhưng ngụy biện rằng: “Trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã có tinh thần
chủ nghĩa Mác – Lênin, nên trong nội hàm nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt
Nam chỉ cần nêu tư tưởng Hồ Chí Minh là đủ”(!).
Cần khẳng định ngay rằng, các quan điểm nói trên rất nguy hiểm, dễ
làm cho những người ít nghiên cứu lý luận chính trị ngộ nhận, cả tin, không hiểu
thực chất đằng sau sự “tán dương tư tưởng Hồ Chí Minh” lại là âm mưu phủ nhận cả
chủ nghĩa Mác – Lênin và cả tư tưởng Hồ Chí Minh, tiến tới phủ nhận nền tảng tư
tưởng của Đảng ta. Nghiên cứu quá trình hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí
Minh có thể thấy rõ những quan điểm nói trên là hoàn toàn sai trái, cần vạch trần,
bác bỏ.
Trước hết, tư tưởng Hồ Chí Minh có nguồn gốc lý luận chủ yếu từ chủ
nghĩa Mác – Lênin, chủ nghĩa Mác – Lênin là nền tảng lý luận của tư tưởng Hồ
Chí Minh. Chính chủ nghĩa Mác – Lênin đã cung cấp cho Hồ Chí Minh thế giới
quan, phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử để hình thành hệ thống quan điểm phong phú, toàn diện của Người về cách mạng
Việt Nam. Nhìn lại quá trình đi tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh có thể thấy,
khởi đầu với hành trang là lòng yêu nước và khát vọng giành độc lập cho dân tộc,
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh vừa lao động, học tập và nghiên cứu lý luận, vừa
trực tiếp tham gia các phong trào đấu tranh chính trị của giai cấp công nhân và
lao động ở nhiều nước để trau dồi kiến thức và xác lập tư tưởng chính trị.
Trong quá trình đó, Người đã gặp chủ nghĩa Mác – Lênin và tìm thấy ở đây cái “cẩm
nang thần kỳ” soi sáng con đường cách mạng Việt Nam. Từ đó, Người đứng hẳn về
Quốc tế III (Quốc tế Cộng sản) và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp vào cuối
năm 1920, trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên, đánh dấu bước ngoặt quyết
định trong hình thành tư tưởng chính trị của mình. Để chuẩn bị cho quá trình vận
động thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, năm 1927, Người viết tác phẩm “Đường
kách mệnh”, trong đó khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều,
nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa
Lênin”1. Trong bài: “Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin”, Hồ Chí Minh nhấn mạnh
đến nguồn gốc lý luận tư tưởng của mình là chủ nghĩa Mác – Lênin. Người khẳng định:
“Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa
tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba. Từng bước một, trong cuộc đấu
tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác – Lênin, vừa làm công tác thực tế, dần dần
tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng
được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”2.
Những dữ liệu đó cho thấy, không thể nói tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ là tư tưởng
dân tộc, không thể đặt tư tưởng Hồ Chí Minh ra ngoài hệ tư tưởng Mác – Lênin.
Nói cách khác, không thể tách tư tưởng Hồ Chí Minh ra khỏi nguồn gốc, nền tảng
lý luận của nó là chủ nghĩa Mác – Lênin.
Thứ hai, tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả sự vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Tại Đại hội XI, Đảng ta đã
khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc
về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta”3. Có thể
thấy rất rõ, toàn bộ hệ thống quan điểm phong phú, toàn diện của Người về những
vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam4, đều là kết quả sự vận dụng sáng tạo những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện thực tiễn nước ta.
Chính trên cơ sở nắm vững và quán triệt sâu sắc bản chất cốt lõi những nguyên
lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh đã vận dụng phương pháp luận
khoa học của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để tự tìm ra những
chủ trương, giải pháp, đối sách phù hợp với hoàn cảnh cụ thể, từng thời kỳ cụ
thể của cách mạng Việt Nam; để hình thành nên hệ thống quan điểm phong phú,
toàn diện về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Người không đi tìm những
kết luận có sẵn trong sách vở kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin, mà tiếp thu
lý luận Mác – Lênin theo phương pháp nhận thức mác xít; đồng thời, theo lối “đắc
ý, vong ngôn”, tức là cốt nắm lấy cái tinh thần, cái bản chất của chủ nghĩa Mác
– Lênin, chứ không tự trói buộc trong cái vỏ ngôn từ; trên cơ sở đó vận dụng
vào hoàn cảnh thực tế của Việt Nam, hình thành nên những quan điểm cơ bản về mục
tiêu, lực lượng, động lực, phương pháp cách mạng,… của cách mạng Việt Nam. Điều
đó hoàn toàn đúng với bản chất của chủ nghĩa Mác – Lênin và lời căn dặn hậu thế
của các nhà sáng lập học thuyết này rằng: học thuyết của họ không phải là một
cái gì đã “xong xuôi hẳn” và “nhất thành bất biến”, mà là một “hệ thống mở”. Hiểu
rõ tinh thần đó, Hồ Chí Minh luôn tự mình quán triệt, thực hiện và yêu cầu: “Học
tập chủ nghĩa Mác – Lênin là học tập cái tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi
người và đối với bản thân mình; là học tập những chân lý phổ biến của chủ nghĩa
Mác – Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta”5;
là “học tập lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác – Lênin để
áp dụng lập trường, quan điểm và phương pháp ấy mà giải quyết cho tốt những vấn
đề thực tế trong công tác cách mạng của chúng ta”6. Chính trên tinh thần đó, tư
tưởng Hồ Chí Minh về các vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam dần được hoàn bị,
phản ánh sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện thực tiễn Việt
Nam. Do vậy, không thể tách rời tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác – Lênin.
Thứ ba, tư tưởng Hồ Chí Minh góp phần bổ sung, làm phong phú và
tăng thêm sức sống cho chủ nghĩa Mác – Lênin; do vậy, là dòng chảy tiếp nối chủ
nghĩa Mác – Lênin. Nghiên cứu nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về những vấn đề cơ
bản của cách mạng Việt Nam có thể thấy rất rõ Hồ Chí Minh không giáo điều khi
tiếp thu lý luận Mác – Lênin, bởi theo Người: “Chủ nghĩa Mác – Lênin là kim chỉ
nam cho hành động, chứ không phải là kinh thánh”7. Đứng vững trên lập trường,
phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, phân tích đặc điểm của thực tiễn Việt
Nam, Hồ Chí Minh đã sớm phát hiện ở xã hội Việt Nam và các nước phương Đông có
những đặc điểm khác với các nước phương Tây mà thời C. Mác chưa có điều kiện
nghiên cứu. Từ đó, Người đã nêu nhiều luận điểm sáng tạo về con đường cách mạng
Việt Nam, như: luận điểm về mục tiêu của cách mạng Việt Nam phải là độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; luận điểm về quy luật ra đời và phát triển của
Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ là sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong
trào công nhân, mà còn kết hợp với phong trào yêu nước. Theo đó, cơ sở xã hội của
Đảng không chỉ là giai cấp công nhân, mà còn là toàn thể nhân dân lao động; Đảng
Cộng sản Việt Nam không chỉ là Đảng của giai cấp công nhân, mà đồng thời còn là
của nhân dân lao động và toàn dân tộc. Đó còn là luận điểm về giải quyết vấn đề
dân tộc và vấn đề giai cấp ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến, mà theo đó,
trong hoàn cảnh mất nước thì quyền lợi dân tộc được đặt lên trên quyền lợi giai
cấp; giải phóng dân tộc đã bao hàm một phần giải phóng giai cấp, tạo điều kiện
thuận lợi để giải phóng giai cấp. Vấn đề dân tộc và thuộc địa cũng là phần đóng
góp rất quan trọng của Hồ Chí Minh vào chủ nghĩa Mác – Lênin. Người đã nêu luận
điểm về vai trò chủ động của cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa, theo đó
cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa có thể thành công trước cách mạng vô sản
ở “chính quốc”, góp phần thúc đẩy cách mạng vô sản ở “chính quốc”. Những đóng
góp quan trọng nói trên của Hồ Chí Minh, một mặt, thể hiện sự trung thành với
những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin; mặt khác, góp phần làm phong
phú, giàu thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin; qua đó, tăng thêm sức
sống cho học thuyết này. Chính vì thế, tư tưởng Hồ Chí Minh là dòng chảy tiếp nối
chủ nghĩa Mác – Lênin trong dòng chảy văn hóa của nhân loại; không tách rời và
không đối lập với chủ nghĩa Mác – Lênin như một số người xuyên tạc.
Từ những phân tích trên, khẳng định rằng: cả tư tưởng Hồ Chí Minh
và chủ nghĩa Mác – Lênin đều nằm trong nội hàm nền tảng tư tưởng của Đảng ta. Bảo
vệ nền tảng tư tưởng của Đảng đòi hỏi vừa phải: “Kiên định và vận dụng, phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”8, vừa phải kiên quyết
đấu tranh chống lại mọi mưu toan cô lập, tách rời tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ
nghĩa Mác – Lênin. Đó là nhiệm vụ vừa cơ bản, lâu dài, vừa cấp thiết trong công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
NGUYỄN NGỌC HỒI
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét