Bác bỏ luận điệu xuyên tạc về chính sách đối với đồng bào các dân tộc thiểu số
Thời
gian qua, bất chấp những thành quả vượt bậc trong thực hiện chính sách dân tộc
nói chung, chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng của Đảng và
Nhà nước ta, các thế lực thù địch ra sức xuyên tạc, chống phá bằng nhiều thủ đoạn
công khai, trực diện, hòng hạ thấp uy tín của Đảng. Đây là thủ đoạn không mới,
nhưng rất nguy hiểm, làm xói mòn lòng tin của nhân dân, nhất là của đồng bào
các dân tộc thiểu số vào Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Vì vậy,
chúng ta cần nêu cao cảnh giác và kiên quyết đấu tranh bác bỏ.
Chia
rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc là một trong những thủ đoạn cơ bản,
xuyên suốt mà các thế lực thù địch ra sức chống phá đối với cách mạng nước ta.
Đây là vấn đề không mới, nhưng hết sức nguy hiểm, bởi nó đánh vào nền tảng sức
mạnh tổng hợp của toàn dân và đất nước, làm suy yếu nước ta từ bên trong, tạo sự
ly khai, cát cứ trên từng khu vực, địa bàn, nhất là trên các địa bàn chiến lược,
gây sự bất ổn định về chính trị,... để dễ bề kêu gọi can thiệp từ bên ngoài.
Để
thực hiện mưu đồ đó, chúng ra sức lợi dụng những khó khăn, bức xúc của đồng bào
các dân tộc trong cuộc sống; lợi dụng những yếu kém trong quản lý, điều hành của
chính quyền cơ sở; đặc biệt, chúng triệt để lợi dụng các phần tử cực đoan, bất
mãn, cơ hội chính trị,... để xuyên tạc, hạ thấp, phủ nhận thành tựu công tác
dân tộc của Đảng và Nhà nước nói chung, chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu
số nói riêng, bằng nhiều thủ đoạn ngày càng công khai và trực diện hơn. Gần
đây, lợi dụng những khó khăn của đồng bào, nhất là ở những nơi bị ảnh hưởng nặng
nề của thiên tai, dịch bệnh,... chúng đẩy mạnh các luận điệu vu khống xuyên tạc,
rằng: “Đồng bào các dân tộc thiểu số ở Việt Nam bị ngược đãi, phân biệt đối xử”(!).
Đây là sự vu khống, bịa đặt một cách trắng trợn, lố bịch, không thể chấp nhận
được, cần được vạch trần và đấu tranh bác bỏ.
Trước
hết, cần khẳng định rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra các chủ trương, chính
sách dân tộc, với những nội dung cơ bản là: “Bình đẳng, đoàn kết, tương trợ
giúp nhau cùng phát triển”. Ngay từ khi mới ra đời và trong suốt quá trình lãnh
đạo cách mạng, trên cơ sở tiếp thu quan điểm về vai trò quần chúng nhân dân của
chủ nghĩa Mác - Lênin, từ truyền thống của dân tộc Việt Nam, Đảng ta và Chủ tịch
Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến vấn đề dân tộc và đại đoàn kết toàn dân tộc;
coi đây là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định sự thành công của cách mạng.
Người cho rằng, các dân tộc đều bình đẳng, tôn trọng, cùng nhau phát triển: “Đồng
bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân
tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta
sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau”1. Kế thừa tư tưởng
đó, trong tất cả các văn kiện Đại hội Đảng, nhất là thời kỳ đổi mới, Đảng ta
luôn xác định, “Bảo đảm các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau
cùng phát triển”2. Quan điểm về sự bình đẳng giữa các dân tộc còn được thể hiện
nhất quán trong Hiến pháp của Nhà nước ta. Điều 5, Hiến pháp Việt Nam năm 2013
khẳng định rõ: “1. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất
của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. 2. Các dân tộc bình đẳng,
đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị,
chia rẽ dân tộc. 3. Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng
tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán,
truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình. 4. Nhà nước thực hiện chính sách phát
triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng
phát triển với đất nước”.
Nhằm
làm cơ sở cho thực hiện tốt chính sách dân tộc, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (khóa IX) đã ban hành nghị quyết riêng (Nghị quyết số 24
ngày 12/3/2003) về Công tác dân tộc. Cùng với đó, Quốc hội đã ban hành các luật
khung và luật chuyên ngành nhằm góp phần hoàn thiện khung pháp lý cho việc đảm
bảo và thúc đẩy các quyền cũng như chính sách hỗ trợ phát triển cho đồng bào
dân tộc thiểu số. Riêng từ năm 2010 đến nay, Chính phủ đã xây dựng, ban hành
118 văn bản chính sách; 54 đề án, chính sách dân tộc trực tiếp hỗ trợ phát triển
kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Trong đó có các
nhóm chính sách: về giảm nghèo bền vững; giáo dục, đào tạo; y tế, chăm sóc sức
khỏe nhân dân; bồi dưỡng, đào tạo cán bộ là người dân tộc thiểu số, miền núi và
nhóm chính sách, cơ chế đặc thù về truyền thông và tuyên truyền vận động, phổ
biến giáo dục pháp luật, v.v. Đặc biệt, tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIV đã
thông qua Nghị quyết số 88/2019/QH14, ngày 18/11/2019 phê duyệt Đề án tổng thể
phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn
2021 - 2030. Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, ngày 14/10/2021, Thủ tướng
Chính phủ đã ký Quyết định số 1719/QĐ-TTg về phê duyệt chương trình mục tiêu quốc
gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai
đoạn 2021 - 2030. Điều đó thể hiện sự nhất quán, quan tâm đặc biệt của Đảng,
Nhà nước Việt Nam đối với đồng bào dân tộc thiểu số, không có sự phân biệt
đối xử như các thế lực thù địch rêu rao, xuyên tạc.
Thành
tựu về thực hiện chính sách dân tộc của Việt Nam là không thể phủ nhận. Theo
đó, công tác phát triển giáo dục, đào tạo vùng dân tộc thiểu số và miền núi đã
có những tiến bộ; chất lượng và hiệu quả ngày càng được nâng cao. Với chủ
trương, đường lối đúng đắn, phù hợp và sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị,
những năm qua, quy mô, mạng lưới trường, lớp ở vùng dân tộc thiểu số và miền
núi được củng cố, phát triển từ mầm non, phổ thông đến cao đẳng, đại học. Hệ thống
trường phổ thông dân tộc nội trú, bán trú được phát triển mạnh mẽ ở các tỉnh,
thành phố, tạo điều kiện cho con em dân tộc thiểu số được học tập, ăn ở tại trường.
Triển khai Đề án củng cố phát triển các trường phổ thông dân tộc nội trú, đã có
nhiều lớp học, phòng phục vụ học tập được nâng cấp và đầu tư xây dựng mới. Hiện
nay, đã có 316 trường phổ thông dân tộc nội trú ở 49 tỉnh, thành phố, với
109.245 học sinh, trong đó, có khoảng 40% số trường được công nhận đạt chuẩn quốc
gia. Chất lượng giáo dục của các trường phổ thông dân tộc nội trú ngày càng được
nâng lên qua từng năm học. Trường phổ thông dân tộc bán trú đã được thành lập ở
28 tỉnh, với quy mô 1.097 trường và 185.671 học sinh. Tỷ lệ học sinh bán trú
hoàn thành cấp tiểu học đạt 98,9%; cấp trung học cơ sở đạt 92%. Có 15,2% số trường
phổ thông dân tộc bán trú được công nhận đạt chuẩn quốc gia.
Cùng
với đó, Chính phủ đã tập trung chỉ đạo phát triển sản xuất, đẩy nhanh công tác
xóa đói, giảm nghèo vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi. Trong bối cảnh nền
kinh tế thế giới suy thoái, tình hình kinh tế đất nước còn nhiều khó khăn, nhưng
trong giai đoạn 2011 - 2015, Nhà nước đã đầu tư khoảng 135.000 tỉ đồng (tăng gấp
3 lần so với 5 năm trước3) giảm nghèo cho đồng bào dân tộc thiểu số. Nhờ đó, tốc
độ tăng trưởng kinh tế của vùng dân tộc thiểu số và miền núi khá cao, giai đoạn
2016 - 2018 đạt bình quân 07% và tăng dần hằng năm. Đời sống vật chất của đồng
bào các dân tộc thiểu số ngày càng được nâng lên, tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh hằng
năm, bình quân toàn vùng dân tộc thiểu số và miền núi giảm 04%/năm; riêng các
xã đặc biệt khó khăn, giảm trên 04%/năm trở lên; các huyện nghèo giảm 05% -
06%/năm trở lên. Giai đoạn 2015 - 2019, đã có 08/64 huyện nghèo theo Nghị quyết
số 30a/2008/NQ-CP, ngày 27/12/2008 của chính phủ thoát nghèo; 14/30 huyện nghèo
hưởng cơ chế theo Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP, ngày 27/12/2008 của chính phủ
thoát khỏi tình trạng khó khăn; 124/2.139 xã, 1.322/20.176 thôn đặc biệt khó
khăn ra khỏi diện đầu tư của Chương trình 135. Từ năm 2013 - 2020, bộ mặt nông
thôn cả nước nói chung và vùng dân tộc thiểu số nói riêng được đổi thay rõ rệt;
thu nhập và điều kiện sống của người dân được cải thiện và nâng cao. Đồng thời,
Chính phủ tập trung xây dựng hàng vạn công trình hạ tầng cho vùng dân tộc thiểu
số và miền núi, chủ yếu là đường giao thông, nhất là đường giao thông đến trung
tâm các xã hầu hết được đầu tư xây dựng mới hoặc cải tạo, nâng cấp, mở rộng; hệ
thống điện, thủy lợi, cầu dân sinh, cầu treo, các công trình nước sạch, trường,
lớp học, trạm y tế, nhà văn hóa, mạng lưới chợ, tạo thuận lợi có ý nghĩa quyết
định đến sự phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Nhiều
trường, lớp học, trạm y tế xã được xây dựng mới, kiên cố hóa; trang thiết bị
thiết yếu phục vụ dạy và học, khám chữa bệnh được đầu tư mới. Đến nay, 100% huyện
có đường đến trung tâm huyện; 98,4% xã có đường ô tô đến trung tâm xã; 100% xã
và 97,2% thôn, bản có điện lưới quốc gia; tỷ lệ hộ gia đình được sử dụng điện đạt
93,9%; 100% xã có trường tiểu học và trung học cơ sở, 99,7% xã có trường mầm
non, mẫu giáo; 99,3 % xã có trạm y tế; 65,8% số xã và 76,7% số thôn có nhà văn
hóa hoặc nhà sinh hoạt cộng đồng.
Trái
với luận điệu của các thế lực thù địch là “các dân tộc thiểu số đang bị đồng
hóa, phân biệt đối xử vì khác biệt văn hóa,...”, trên thực tế, Nhà nước Việt
Nam luôn chú trọng đến công tác bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống
của các dân tộc. Để thực hiện chủ trương này, ngày 27/7/2011, Thủ tướng Chính
phủ đã ký Quyết định số 1270/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án “Bảo tồn, phát triển
văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam đến năm 2020” với nội dung tập trung ưu
tiên bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số rất ít người. Nhờ đó, văn
hóa truyền thống của các dân tộc được tôn vinh, từng bước được bảo tồn, đời sống
văn hóa, tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số được cải thiện, mức hưởng
thụ văn hóa được nâng cao. Các giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu
số, như: không gian văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên, Thánh địa Mỹ Sơn, Cao
nguyên đá Đồng Văn,... được bảo tồn, tôn vinh, được công nhận là Di sản văn hóa
thế giới. Hiện nay, hầu hết các xã được phủ sóng phát thanh, truyền hình; Đài
Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam và các đài phát thanh, truyền hình
địa phương đều có các chương trình bằng tiếng dân tộc, phù hợp với từng vùng,
miền. Cùng với đó, tiếng nói, chữ viết của các dân tộc thiểu số được tôn trọng.
Nhà nước có nhiều chính sách bảo tồn, sử dụng và phát triển ngôn ngữ các dân tộc
thiểu số, như: quy định việc dạy và học tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu số
trong các cơ sở giáo dục phổ thông và trung tâm giáo dục thường xuyên. Đến nay,
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã biên soạn giáo trình dạy 12 thứ tiếng dân tộc thiểu số;
cả nước có hơn 30 tỉnh, hơn 600 trường tổ chức dạy, với hàng trăm nghìn học
sinh theo học tiếng dân tộc. Đặc biệt, hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo tại vùng
đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi nhìn chung ổn định, đúng pháp luật; quyền
tự do tín ngưỡng được đảm bảo; đa số người dân theo các tôn giáo sống tốt đời đẹp
đạo, tuân thủ pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Có thể khẳng định rằng, với hệ thống chính sách dân tộc được hoàn thiện, trên thực tế các dân tộc thiểu số ở nước ta đã được bình đẳng về chính trị, văn hóa truyền thống được bảo tồn; chữ viết, tôn giáo, tín ngưỡng của đồng bào được tôn trọng, các quyền của công dân được bảo đảm, đã làm thay đổi cơ bản diện mạo vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn được cải thiện. Đồng bào tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, gắn bó, đồng hành cùng dân tộc, là những minh chứng hùng hồn phản bác lại luận điệu xuyên tạc, vu khống về cái gọi là “đồng bào dân tộc thiểu số ở Việt Nam bị ngược đãi, phân biệt đối xử”(!) của các thế lực thù địch.

- Điều phi lý trong báo cáo nhân quyền hằng năm của Bộ Ngoại giao Mỹ
- 越南继续主动、积极为促进世界人权事业贡献力量
- Việt Nam tiếp tục chủ động đóng góp thúc đẩy nhân quyền trên thế giới
- 促进性别平等,确保越南人权
- Thúc đẩy bình đẳng giới, đảm bảo quyền con người tại Việt Nam
- 越南承诺当选联合国人权理事会成员国后继续做出积极贡献
- Việt Nam cam kết đóng góp tích cực khi trở thành thành viên Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc
- 谁在偷换人权概念?
- Ai đang đánh tráo khái niệm về nhân quyền?
- 越南与全面保障人权的努力
- Việt Nam và nỗ lực bảo đảm quyền con người một cách toàn diện
- 加大人权宣传力度
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét