Bồi đắp tình yêu tiếng Việt cho cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài
Công tác xây dựng, củng cố, phát triển phong trào dạy,
học tiếng Việt cho cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là nhiệm vụ quan trọng
trong việc hỗ trợ cộng đồng giữ gìn bản sắc văn hóa và truyền thống dân tộc;
góp phần phổ biến, truyền bá tiếng Việt và văn hóa Việt Nam ở nước ngoài.
Từ việc hiểu và sử dụng được tiếng Việt, dù ở xa quê
hương, các thế hệ người Việt ở nước ngoài được nuôi dưỡng tinh thần đoàn kết,
lan tỏa tình yêu quê hương, đất nước.
Chất
keo gắn kết kiều bào với quê hương, đất nước
Đối với cộng đồng hơn 5,3 triệu người Việt Nam ở nước
ngoài đang sinh sống, làm việc trên 130 quốc gia và vùng lãnh thổ, tiếng Việt
là phương tiện lưu giữ, lan tỏa, trao truyền văn hóa, giúp đồng bào ta ở nước
ngoài bảo tồn được bản sắc văn hóa riêng. Tiếng Việt cũng là cầu nối đồng bào
Việt Nam trên toàn thế giới với Tổ quốc.
Dạy tiếng Việt cho người Việt Nam ở nước ngoài, đặc
biệt cho thế hệ trẻ, đã trở thành phong trào phát triển rộng khắp trên thế giới,
điển hình như Hoa Kỳ (khoảng 200 trung tâm, cơ sở dạy tiếng Việt), Thái Lan (tổ
chức 39 lớp học), Campuchia (thành lập 33 điểm trường, lớp), Lào (với 13 trường,
trung tâm dạy tiếng Việt)...
Tiêu biểu phải kể tới phong trào dạy và học tiếng Việt
tại Ba Lan. Ông Lê Xuân Lâm, kiều bào Ba Lan, Tổng biên tập Báo Quê Việt, Chủ tịch
Hội đồng trường tiếng Việt Lạc Long Quân cho biết, phong trào học tiếng Việt của
trẻ em người Việt ở Ba Lan tương đối phát triển. Trong đó, trường tiếng Việt Lạc
Long Quân tại Thủ đô Warszawa, được thành lập năm 1999, xuất phát từ nguyện vọng
được học tiếng Việt, hiểu biết tiếng mẹ đẻ và giữ gìn văn hóa Việt Nam của một
số phụ huynh, con em sinh ra và lớn lên ở Ba Lan.
Từ buổi đầu thành lập, trường chỉ có khoảng 30 học
sinh theo học, đến nay, mỗi năm đã phát triển và duy trì 150-180 học sinh trong
độ tuổi từ 6-14 tham gia học tiếng Việt, vào chiều thứ Bảy hàng tuần. Các em được
chia thành hai khối học: Khối I gồm các lớp học năm thứ nhất và năm thứ hai với
chương trình A, B; Khối II gồm các lớp học năm thứ ba, tư, năm với chương trình
C, D, E.
Từ năm 2018, trường đã hoàn thành biên soạn một bộ
giáo trình riêng có tên gọi “Em học tiếng Việt,” gồm 14 quyển với các chương
trình A, B, C, D, E nhằm đảm bảo phù hợp với môi trường và điều kiện thời gian
của con em cộng đồng người Việt tại nước sở tại.
Đặc biệt, từ khi có dịch COVID-19 đến nay, nhà trường
đã chủ động chuyển sang phương thức giảng dạy và học trực tuyến.
“Đối với các cháu học tiếng Việt, chúng tôi không chỉ
dạy kỹ năng nghe-nói-đọc-viết đơn thuần mà còn lồng ghép vào những nét đẹp văn
hóa Việt Nam, những ngày lễ, tết cổ truyền của dân tộc, những sự kiện lớn của đất
nước, đặc biệt là tình yêu quê hương và niềm tự hào về chủ quyền biển, đảo để
các cháu hiểu biết về nguồn cội, về Tổ quốc Việt Nam,” ông Lê Xuân Lâm nói.
Đồng quan điểm, bà Trần Thị Bạch Lan, Phó Chủ tịch Hội
người Việt Nam tỉnh Savanakhet (Lào) cho biết, việc gìn giữ, bảo tồn bản sắc
văn hóa và truyền thống dân tộc là nhiệm vụ bức thiết, trong đó tăng cường ngôn
ngữ Việt là chất keo gắn kết cộng đồng kiều bào với quê hương, đất nước.
Được sự quan tâm của chính quyền hai nước Lào và Việt
Nam, Hội người Việt Nam tại Lào đã hoàn thiện và đưa vào sử dụng trường Song ngữ
Lào-Việt khang trang, hiện đại.
"Chúng tôi luôn mong muốn trao truyền cho các
thế hệ sau tình đoàn kết, nét đẹp văn hóa truyền thống, ngôn ngữ của dân tộc
ta, niềm tự hào là người Việt Nam, là con cháu của Bác Hồ kính yêu," bà Bạch
Lan tâm sự.
Tăng
cường sức mạnh “mềm” của đất nước
Trên cơ sở xác định việc dạy và học, bảo tồn tiếng
Việt là nguyện vọng chính đáng, nhu cầu thiết yếu của cộng đồng người Việt Nam ở
nước ngoài, mới đây nhất, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 930/QĐ-TTg
ngày 3/8/2022 phê duyệt Đề án “Ngày Tôn vinh tiếng Việt trong cộng đồng người
Việt Nam ở nước ngoài giai đoạn 2023-2030” (Đề án), góp phần cụ thể hóa chủ
trương “Tạo điều kiện để đồng bào giữ gìn tiếng Việt, bản sắc văn hóa dân tộc,
nâng cao lòng tự hào, tự tôn dân tộc” (Văn kiện Đại hội XIII của Đảng), đáp ứng
nguyện vọng, nhu cầu của bà con.
Theo Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Quang Hiệu, Chủ
nhiệm Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài: “Tiếng Việt là tài sản
quý báu của dân tộc Việt Nam; đóng vai trò vừa là cầu nối, vừa là phương tiện
lan tỏa các giá trị văn hóa; là công cụ quan trọng hàng đầu giúp giữ gìn, tôn
vinh bản sắc văn hóa dân tộc, đóng góp vào việc củng cố nền độc lập của Tổ quốc,
đại đoàn kết dân tộc Việt Nam. Công tác bảo tồn, phát huy tiếng Việt trong cộng
đồng đã đạt được nhiều kết quả quan trọng.”
Với việc thực hiện Đề án này, Thứ trưởng Bộ Ngoại
giao mong muốn, Ngày Tôn vinh tiếng Việt trong cộng đồng người Việt Nam ở nước
ngoài sẽ trở thành dấu mốc quan trọng hằng năm trong đời sống văn hóa, tinh thần
của cộng đồng, với những hoạt động thiết thực nhằm tôn vinh sự giàu đẹp của tiếng
Việt, nâng cao nhận thức về ngôn ngữ và văn hóa dân tộc đối với kiều bào trên
toàn thế giới, đặc biệt là các thế hệ trẻ và bạn bè quốc tế; lan tỏa mạnh mẽ
tình yêu tiếng Việt, trở thành động lực thúc đẩy phong trào dạy và học tiếng Việt
trong cộng đồng.
Qua đó, góp phần giữ gìn và phát huy bản sắc văn
hóa, truyền thống dân tộc; đặt nền tảng cho giai đoạn mới về phát triển vị thế
tiếng Việt trên nhiều lĩnh vực giáo dục cộng đồng.
Thông qua việc tôn vinh ngôn ngữ dân tộc, góp phần
xây dựng cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài ổn định, đoàn kết, vững mạnh,
luôn hướng về và tích cực đóng góp cho quê hương Việt Nam.
Đồng thời, việc tôn vinh tiếng Việt tại các địa bàn
sẽ góp phần truyền thông về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta,
cũng như văn hóa Việt Nam tới bạn bè quốc tế, góp phần tăng cường sức mạnh “mềm”
của đất nước.
Thứ trưởng Phạm Quang Hiệu nêu rõ, việc tổ chức Ngày
Tôn vinh tiếng Việt 8/9 hằng năm gồm các hoạt động: Hội nghị kỷ niệm Ngày Tôn
vinh tiếng Việt; định kỳ tổ chức cuộc thi tìm kiếm và phong tặng danh hiệu “Sứ
giả tiếng Việt ở nước ngoài” (thông qua các hoạt động liên quan đến tiếng Việt
như thi kể chuyện, làm thơ, hùng biện...); Chương trình biểu diễn nghệ thuật
“Tiếng Việt thân thương”; các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài phối hợp với
chính quyền và các đại sứ quán ở nước sở tại tổ chức hoạt động quảng bá ngôn ngữ
các nước, lồng ghép Chương trình Ngày Tôn vinh tiếng Việt với các hoạt động đối
ngoại tại địa bàn.
Bên cạnh đó, nhân dịp Ngày Tôn vinh tiếng Việt hàng
năm, Bộ Ngoại giao phối hợp với các bộ, ngành, cơ quan liên quan tổ chức chương
trình “Tri ân” nhằm ghi nhận, động viên các cá nhân, gia đình, tổ chức, hội
đoàn có đóng góp tích cực trong phong trào giữ gìn và lan tỏa tiếng Việt trong
cộng đồng.
"Nhằm đa dạng hóa hình thức thông tin, quảng bá
trong và ngoài nước hưởng ứng Ngày Tôn vinh tiếng Việt, ngoài huy động sự vào
cuộc của các cơ quan truyền thông báo chí, các nhân vật có uy tín, ảnh hưởng
trong cộng đồng với các hình thức truyền thông mới và đa dạng, chúng tôi sẽ hỗ
trợ, phối hợp với các hội đoàn người Việt tại các địa bàn tổ chức Ngày/Tuần lễ
nói tiếng Việt trong cộng đồng; hỗ trợ cộng đồng thành lập các câu lạc bộ tiếng
Việt và văn hóa Việt Nam; tổ chức các hoạt động dạy học, quảng bá tiếng Việt và
văn hóa Việt Nam trong cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài và bạn bè quốc tế,"
Thứ trưởng Phạm Quang Hiệu nói.
Ngoài ra, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao cho biết thêm, các Tủ sách tiếng Việt; website riêng về dạy, học tiếng Việt cũng sẽ được ra đời nhằm thúc đẩy việc đưa tiếng Việt có nội dung quảng bá, giới thiệu văn hóa, truyền thống, đất nước, biển đảo, con người Việt Nam vào các thư viện, cơ sở dữ liệu ở sở tại... Cùng với đó là các sáng kiến khác liên quan đến quảng bá tiếng Việt./.

- Tiếp biến văn hóa - Nền tảng phục hồi và phát triển bền vững kinh tế
- 传承越南灶王节文化之美
- Lễ cúng ông Công, ông Táo - Phong tục tín ngưỡng đẹp của người Việt
- 发展各种文化产品与服务 向世界推广越南形象(第二期)
- 保护与弘扬文化遗产价值 发挥国家文化的“软实力”
- Phát triển "sức mạnh mềm" của văn hóa Việt Nam
- 保护和弘扬升龙皇城的世界文化遗产价值
- Bảo tồn và phát huy giá trị di sản Hoàng thành Thăng Long
- 促进越南文化产业发展
- Thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp văn hóa
- 培育海外年轻一代对越南语的热爱
- 河内着力打造文化品牌形象
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét