Tự do báo chí phải trong khuôn khổ của pháp luật
Tự do báo chí là một trong những quyền cơ bản của
con người trong thời đại ngày nay. Đó là quyền được thông tin, trao đổi, giao
tiếp, thể hiện ý chí và nguyện vọng của mỗi cá nhân và tổ chức qua các phương
tiện truyền thông đại chúng. Tuy nhiên, cũng giống như nhiều quyền cơ bản của
con người, quyền tự do báo chí phải đặt trong khuôn khổ của pháp luật.
Chúng ta biết, không chỉ Việt Nam mà rất nhiều quốc
gia trên thế giới đều có quy định trong Hiến pháp: “Mọi người đều bình đẳng trước
pháp luật”. Vì thế, việc các cơ quan chức năng của Việt Nam xét xử một số nhà
báo, hoặc những người đã từng làm báo vi phạm pháp luật là điều bình thường.
Nhà báo cũng là công dân, đều bình đẳng trước pháp luật như mọi công dân khác.
Thế nhưng, gần đây, khi tòa án của Việt Nam xét xử một số phần tử lợi dụng “mác
phóng viên” để kích động xuyên tạc, tán phát những thông tin sai lệch,… thì một
số người đã “bày tỏ chính kiến” trên mạng xã hội hoặc trả lời phỏng vấn báo chí
nước ngoài rằng: “Việt Nam đã đàn áp nhà báo”, “Ở Việt Nam không có tự do báo
chí”, v.v. Cùng với đó, một số tổ chức và báo chí của nước ngoài do không hiểu,
hoặc cố tình không hiểu tình hình thực tế của Việt Nam đã thêu dệt và đưa những
thông tin không đúng sự thật về báo chí Việt Nam. Điển hình là Tổ chức Phóng
viên không biên giới (RSF) đã công bố cái gọi là báo cáo về “Chỉ số tự do báo
chí thế giới năm 2022”, đưa ra luận điệu bịa đặt và cáo buộc rằng: Việt Nam vẫn
nằm trong nhóm các quốc gia có tình hình báo chí “rất tồi tệ”. Từ đó, họ kêu gọi
mọi người đấu tranh đòi “tự do báo chí đích thực”, “thả tự do cho các nhà báo”
vi phạm bị pháp luật xử lý, v.v.
Những người có hành vi đi ngược lại với lợi ích của
đại đa số nhân dân Việt Nam có thể không biết, hoặc cố tình không biết rằng, tự
do ngôn luận là quyền cơ bản của con người, nhưng quyền này luôn có giới hạn và
phải nằm trong khuôn khổ của pháp luật. Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều
có quy định như vậy. Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền (1948) khẳng định: “Mỗi
người đều có những nghĩa vụ đối với cộng đồng, trong khi hưởng thụ các quyền về
tự do cá nhân, phải chịu những hạn chế do luật định nhằm mục đích duy nhất là bảo
đảm việc thừa nhận và tôn trọng đối với các quyền tự do của người khác và phù hợp
với những đòi hỏi chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung”.
Trên thực tế, hầu hết các nước trên thế giới hiện
nay đều có chế tài, điều khoản luật xử lý nghiêm những hành vi lợi dụng tự do
báo chí để vi phạm pháp luật. Nói cách khác, tự do báo chí, ở bất kỳ quốc gia
nào cũng phải gắn với chế độ chính trị, điều kiện xã hội, nền tảng đạo đức,
pháp lý trong mỗi hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Mỗi quốc gia, tùy thuộc vào điều kiện
và bối cảnh cụ thể mà đưa ra những giới hạn nhất định đối với việc thực hiện tự
do ngôn luận của công dân. Ở Mỹ, giới hạn của tự do ngôn luận được thể hiện chủ
yếu qua án lệ của các tòa án, đặc biệt là Tòa án Tối cao Hoa Kỳ, cho phép chính
quyền ngăn chặn và trừng phạt các phát ngôn có tính chất khiêu dâm, tục tĩu, phỉ
báng, xúc phạm, gây hấn, v.v. Tháng 4/2003, Peter Arnett (tác giả của cuốn sách
“Từ chiến trường khốc liệt” đã được Nhà xuất bản Thông tấn dịch ra tiếng Việt),
là phóng viên “ruột” của hãng CNN, bỗng dưng bị sa thải vì đưa thông tin không
phù hợp với quan điểm của Nhà trắng và Lầu năm góc. Ở Pháp, pháp luật về tự do
ngôn luận cũng đưa ra các giới hạn, chế tài nghiêm khắc, trừng trị hành vi lạm
dụng quyền tự do ngôn luận làm ảnh hưởng tới quyền, lợi ích hợp pháp của người
khác, bao gồm việc bảo vệ nhân phẩm con người, chống lại việc vu khống, bôi nhọ;
chống phân biệt chủng tộc, tôn giáo; chống kích động bạo lực, gây hận thù (Luật
Tự do báo chí, năm 1881); chống lại việc xâm phạm đời tư (Bộ luật Dân sự); cấm
xuất bản một số tài liệu liên quan đến an ninh quốc gia (Luật Hình sự). Việc
bày tỏ quan điểm cá nhân trên internet cũng chịu sự điều chỉnh của Luật Tự do
báo chí, v.v.
Ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước luôn tôn trọng và bảo đảm
các quyền con người, trong đó có quyền tự do ngôn luận của công dân. Tự do ngôn
luận được hiến định tại Điều 10 trong bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa (năm 1946): “Công dân Việt Nam có quyền: Tự do ngôn luận, tự
do xuất bản, tự do tổ chức và hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do cư trú, đi lại
trong nước và ra nước ngoài”. Điều 25, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam hiện hành (năm 2013) tiếp tục khẳng định: “Công dân có quyền tự do
ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc
thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Luật Báo chí năm 2016, Luật Tiếp
cận thông tin năm 2016 và Luật An ninh mạng năm 2018 đều có những quy định cụ
thể về tự do ngôn luận, tự do báo chí. Các đạo luật này còn có những quy định cụ
thể về hành vi đăng tải, phát tán thông tin sai lệch, xuyên tạc, phỉ báng, phủ
nhận chính quyền; bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân; xuyên tạc lịch sử; phủ
nhận thành tựu cách mạng; xúc phạm dân tộc, anh hùng dân tộc; thông tin sai sự
thật, vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá
nhân,… đều bị xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật. Như vậy, về mặt
pháp luật, Đảng, Nhà nước Việt Nam đã ban hành khung pháp lý về quyền tự do ngôn
luận đầy đủ, đồng bộ, tương thích với luật pháp quốc tế về quyền con người.
Suốt 77 năm qua, kể từ ngày Cách mạng Tháng Tám
thành công, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của công dân luôn được Đảng và
Nhà nước ta quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi để người dân có thể được thụ hưởng.
Hiện nay, Việt Nam có hơn 800 cơ quan báo chí in và điện tử, hơn 70 cơ quan có
giấy phép hoạt động phát thanh, truyền hình. Cả nước có hơn 40.000 người hoạt động
trong cơ quan báo chí, trong đó có hơn 17.000 người được cấp Thẻ Nhà báo, v.v.
Việt Nam được thế giới ghi nhận là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng
và sử dụng internet cao nhất thế giới với hơn 68 triệu người (chiếm 70% dân số),
v.v.
Những năm qua, báo chí ở Việt Nam luôn giữ vai trò
là tiếng nói của Đảng, Nhà nước và là diễn đàn của nhân dân; chủ động, kịp thời,
thông tin hiệu quả về những vấn đề lớn của đất nước, thể hiện rõ vai trò dẫn dắt,
định hướng dư luận và tạo sự đồng thuận xã hội. Các cơ quan báo chí của Việt
Nam thực sự là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân, tuyên truyền nhanh, đầy
đủ, chính xác các tin tức sự kiện, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của
Nhà nước và Chính phủ trong thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Đặc biệt, các cơ quan báo chí đã phát hiện và phản ánh trung thực
gương tốt, việc tốt, nhiệt tình ủng hộ và cổ vũ nhân tố mới, mô hình hiệu quả,
những biểu hiện tích cực trong quá trình phục hồi kinh tế - xã hội sau đại dịch
Covid-19; qua đó, cổ vũ cán bộ, đảng viên, quần chúng, người lao động nỗ lực khắc
phục khó khăn, hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Một trong những chức năng cơ bản, quan trọng của báo
chí là giám sát và phản biện xã hội. Chức năng này được báo chí cách mạng Việt
Nam phát huy hiệu quả trong suốt chặng đường gần một thế kỷ qua, đặc biệt là
trong công cuộc phục hồi kinh tế - xã hội sau đại dịch Covid-19. Báo chí đã chủ
động tham gia giám sát và phản biện xã hội, đóng góp tích cực vào việc hoạch định
đường lối, chủ trương của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước; đấu tranh
phản bác các luận điệu thù địch, sai trái, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và
các tệ nạn xã hội đang làm cản trở sự phát triển của đất nước. Trong hoạt động
nghiệp vụ, các nhà báo đã không quản ngại khó khăn, thách thức, lăn lộn với thực
tiễn, phát hiện những “kẽ hở”, bất cập trong việc ban hành các chính sách,... từ
đó kiến nghị với các cơ quan chức năng của Nhà nước sửa đổi, chấn chỉnh kịp thời.
Đồng thời, phanh phui nhiều vụ tham nhũng, tiêu cực nghiêm trọng - những “con
sâu” đang đục khoét đời sống của người lao động, những kẻ làm giàu bất chính,
những nguyên nhân kìm hãm tài năng của quần chúng; nêu các biện pháp ngăn chặn
và khắc phục những trở ngại đó. Báo chí, truyền thông đã tạo dư luận mạnh mẽ đấu
tranh, lên án những hiện tượng tham nhũng, tiêu cực nảy sinh trong đời sống xã
hội, như: thói lãng phí, chây lười, làm ăn gian dối, biểu hiện thờ ơ vô trách
nhiệm, vô tổ chức, v.v. Đây chính là cuộc đấu tranh cho cái tốt thắng cái xấu,
đấu tranh cho phương hướng đúng, hành vi tốt ngày càng được nhân rộng và phát
triển vì lợi ích của đất nước và nhân dân. Đó là minh chứng sinh động cho sự tự
do báo chí ở Việt Nam.
Thế nhưng, một số tổ chức, cá nhân có thể không hiểu
hoặc có biết nhưng do có dụng ý xấu lại xuyên tạc, bịa đặt. Họ nhân danh cái gọi
là “dân chủ”, “nhân quyền” để cổ vũ cho thứ tự do báo chí không xây dựng trên nền
tảng của sự trung thực và tôn trọng sự thật; một thứ “tự do báo chí” vô nguyên
tắc, nằm ngoài khuôn khổ pháp luật. Họ đòi Việt Nam phải tổ chức, quản lý báo
chí theo “mô hình báo chí phương Tây”, đòi “tư nhân hóa báo chí” để biến báo
chí ở Việt Nam thành công cụ phục vụ mưu đồ của họ. Họ ra sức tung hô, cổ xúy,
ca ngợi những kẻ mà họ gán cho những mỹ từ, như: “nhà báo tự do”, “nhà đấu
tranh dân chủ”, “nhà bất đồng chính kiến” mà thực ra đó là những người vi phạm
pháp luật, đã bị pháp luật Việt Nam xử lý.
Theo Hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật của
Việt Nam, “quyền tự do ngôn luận” của mọi công dân là quyền được tự do có quan
điểm và giữ vững quan điểm của mình, cũng như được tự do tìm kiếm và tiếp nhận,
chia sẻ thông tin nhưng phải nằm trong giới hạn mà pháp luật quy định, phù hợp
với các giá trị đạo đức, văn hóa, truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam,
không phải tùy tiện, vu khống, bôi nhọ, lừa bịp, xâm hại đến an ninh quốc gia,
trật tự xã hội, quyền tự do của người khác. Cá nhân, tổ chức phải chịu trách
nhiệm về các hành vi, ứng xử trên mạng xã hội; phối hợp với các cơ quan chức
năng để xử lý hành vi, nội dung thông tin vi phạm pháp luật.
Pháp luật của Việt Nam “không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai”. Thực tế cuộc chiến chống tham nhũng, tiêu cực ở Việt Nam đã và đang diễn ra đúng như thế. Vì thế, những cá nhân “té nước theo mưa”, “theo đóm ăn tàn”, mờ mắt theo chân các thế lực thù địch, phản động để chống phá, đi ngược lại lợi ích của quốc gia, dân tộc chắc chắn sẽ bị xử lý theo quy định pháp luật hiện hành, trả giá đắt cho những hành vi lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, tổ chức, cá nhân hay cao hơn nữa là tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Vì vậy, mỗi người dân Việt Nam cần nhận thức đúng đắn về quyền tự do ngôn luận, từ đó nêu cao ý thức trách nhiệm khi tham gia mạng xã hội, đề cao cảnh giác, chủ động đấu tranh, phản bác, ngăn chặn các luận điệu sai trái, thông tin xấu độc và tích cực chia sẻ, lan tỏa các thông tin lành mạnh.
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét