Home » hoptacdoingoai
Thứ Hai, 29 tháng 2, 2016
Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương, cơ hội và thách thức-Hành động của chúng ta
Ngày 04 tháng 02 năm 2016, Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình
Dương (TPP) đã được ký kết giữa 12 nước, gồm Úc, Brunei, Canada, Chile, Nhật Bản,
Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru, Singapore, Hoa Kỳ và Việt Nam, có quy mô
kinh tế chiếm 40% GDP và 30% thương mại toàn cầu. Đây là một Hiệp định thương mại
tự do thế hệ mới – được kỳ vọng trở thành hình mẫu cho phát triển thương mại
khu vực và thế giới với yêu cầu cao hơn trong bối cảnh lực lượng sản xuất phát
triển rất nhanh và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
Việc nước ta ký Hiệp định TPP không chỉ là kết quả của quá
trình 5 năm kiên trì đàm phán với tinh thần vừa hợp tác vừa đấu tranh, lấy lợi
ích quốc gia dân tộc làm mục tiêu cao nhất. Sâu xa hơn, đây là thành quả của tiến
trình 30 năm đổi mới, trong đó hội nhập kinh tế quốc tế là một nội dung quan trọng,
ngày càng được khẳng định mạnh mẽ và kiến giải sâu sắc qua các Nghị quyết của Đảng.
Đây còn là những trải nghiệm rút ra từ thực tiễn hội nhập của nước ta sau khi
ký kết và thực thi Hiệp định Thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ, tham gia Khu vực Mậu dịch
tự do ASEAN, các Hiệp định thương mại tự do giữa ASEAN với các đối tác và gia
nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO)… Hội nhập kinh tế quốc tế còn là một nội
hàm quan trọng trong thể chế kinh tế thị trường hiện đại định hướng xã hội chủ
nghĩa mà chúng ta đang xây dựng.
Thực hiện chủ trương tích cực và chủ động hội nhập quốc tế,
trong các nhiệm kỳ Đại hội X và XI, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã chấp thuận
đề nghị của Chính phủ về đàm phán tham gia một số Hiệp định Thương mại tự do mới.
Đây là những Hiệp định có mức độ cam kết mở cửa thị trường cao hơn cam kết
trong WTO và các Hiệp định thương mại tự do (FTA) đã ký trước đây. Đặc biệt,
TPP và FTA với EU là những Hiệp định toàn diện, cân bằng lợi ích, với những cam
kết mở cửa thị trường sâu rộng cả về thương mại hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, bảo
hộ quyền sở hữu trí tuệ ở mức cao và những cam kết về thể chế kinh tế thị trường,
doanh nghiệp nhà nước, mua sắm công… nhằm tạo ra một môi trường kinh doanh minh
bạch và cạnh tranh công bằng. Các Hiệp định này còn bao gồm các nội dung tuy
không phải là thương mại trực tiếp nhưng có liên quan đến thương mại như môi
trường và lao động. Với những nội hàm chủ yếu nêu trên, TPP cùng với FTA Việt
Nam-EU được gọi là Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.
TPP là Hiệp định tiếp cận thị trường toàn diện, bảo đảm sự dịch
chuyển tự do ở mức độ cao hơn của hàng hóa, dịch vụ, vốn và công nghệ thông qua
việc cam kết loại bỏ nhanh thuế xuất khẩu, nhập khẩu và rào cản phi quan thuế;
tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng, không phân biệt đối xử; tạo thuận lợi
cho thương mại và đầu tư, qua đó đem lại lợi ích nhiều hơn cho sản xuất kinh
doanh, người lao động cũng như người tiêu dùng.
TPP sẽ thúc đẩy hình thành mạng sản xuất và chuỗi cung ứng mới
trong thị trường 12 nước thành viên; tạo điều kiện để phát triển mạnh thương mại
nội khối; nâng cao hiệu quả kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng, hỗ trợ mục tiêu tạo
việc làm, tăng thu nhập và cải thiện đời sống của người dân; góp phần giải quyết
những thách thức trong nền kinh tế đương đại, khuyến khích đổi mới, sáng tạo,
phát triển nền kinh tế số, xây dựng chính sách cạnh tranh và quy tắc hoạt động
của doanh nghiệp nhà nước cũng như bảo vệ các quyền cơ bản của người lao động
và bảo vệ môi trường. Hiệp định còn có các quy định bảo đảm cơ hội để các nền
kinh tế thành viên có trình độ phát triển khác nhau và doanh nghiệp thuộc mọi
quy mô đều có thể được hưởng lợi; giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa vượt qua thách
thức, tận dụng cơ hội để phát triển. TPP cũng bao gồm các cam kết về hỗ trợ kỹ
thuật, nâng cao năng lực và có sự linh hoạt về lộ trình thực thi, phù hợp với sự
khác biệt về trình độ phát triển để các bên có khả năng đáp ứng cam kết và tận
dụng đầy đủ lợi ích của Hiệp định. Đồng thời, quy định cơ chế giám sát thực thi
và chế tài xử lý các vi phạm.
TPP tôn trọng thể chế chính trị của mỗi nước; thừa nhận yêu cầu
phải tuân thủ đầy đủ pháp luật quốc gia, phù hợp với các cam kết quốc tế và
không bao gồm các nội dung liên quan đến quốc phòng, an ninh. Hiệp định cũng được
kỳ vọng là tạo ra một nền tảng mới cho hội nhập kinh tế khu vực và tạo cơ hội
cho các quốc gia khác trên vành đai châu Á-Thái Bình Dương tham gia.
Trong điều kiện trình độ phát triển của nền kinh tế còn thấp
và còn nhiều khó khăn, việc chủ động quyết định tham gia các Hiệp định thương mại
tự do thế hệ mới, đặc biệt là TPP với tinh thần sẵn sàng chấp nhận cạnh tranh,
nỗ lực vượt qua thách thức, tranh thủ cơ hội để vươn lên phát triển nhanh và bền
vững, thể hiện bản lĩnh chính trị, tư duy sắc bén và tầm nhìn thời đại của Đảng
và Nhà nước ta. Đây còn là sự khẳng định niềm tin vào ý chí, khả năng và sức mạnh
của con người Việt Nam, của dân tộc Việt Nam.
TPP cùng FTA với EU sẽ mang lại nhiều cơ hội thuận lợi nhưng
cũng đặt ra không ít khó khăn thách thức đối với nước ta.
Các Hiệp định này sẽ tạo thêm xung lực mới cho phát triển
kinh tế-xã hội, đặc biệt là trong thu hút đầu tư và thúc đẩy xuất khẩu với các
nền kinh tế lớn nhất thế giới, trong đó EU gồm 28 thành viên với GDP trên 18
nghìn tỷ USD và TPP hiện có 12 thành viên với GDP trên 20 nghìn tỷ USD. Đây là
những khu vực có công nghệ nguồn, thị trường xuất khẩu và thu hút đầu tư lớn nhất
của Việt Nam liên tục trong nhiều năm qua. Nếu tính đến tác động cộng hưởng của
các Hiệp định này với các FTA đã ký hoặc đang đàm phán, cơ hội còn lớn hơn nhiều
vì nước ta sẽ có quan hệ thương mại tự do với 55 quốc gia, trong đó có 15 nước
thuộc nhóm G20.
Xuất khẩu và đầu tư có vai trò quyết định cho tăng trưởng
kinh tế, tạo việc làm, nâng cao đời sống dân cư, nhất là trong điều kiện thu nhập
bình quân đầu người và tiêu dùng nội địa của nước ta còn thấp. Tăng tỷ trọng xuất
nhập khẩu với các thị trường này cũng làm cho quan hệ thương mại với các nước cân
bằng hơn. Những cam kết trong các Hiệp định là những khung khổ, chuẩn mực để
góp phần hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường hiện đại và thúc đẩy tiến trình
tái cơ cấu, chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Tham gia các Hiệp định này còn là một
bước tiến mới trong thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa
phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc
tế, nhất là tại một khu vực đang diễn ra cạnh tranh chiến lược ngày càng gay gắt.
Cùng với những cơ hội thuận lợi, các Hiệp định này cũng đặt
ra những khó khăn thách thức không nhỏ. Đó là, cạnh tranh sẽ diễn ra quyết liệt
không chỉ ở thị trường các nước tham gia Hiệp định mà ngay tại thị trường trong
nước trên cả ba cấp độ: sản phẩm, doanh nghiệp và quốc gia – đặc biệt là cạnh
tranh về chất lượng thể chế và môi trường kinh doanh. Trước sức ép cạnh tranh,
một số doanh nghiệp sau thời gian chuyển đổi, tái cơ cấu nếu không vươn lên được
có thể phải giải thể hoặc phá sản, một bộ phận người lao động sẽ mất việc làm;
khu vực nông nghiệp và nông dân dễ bị tổn thương; khoảng cách giàu nghèo sẽ bị
doãng ra nếu chúng ta không thực hiện hiệu quả chiến lược phát triển nhanh, bền
vững và bảo đảm cho mọi người dân đều được hưởng thành quả của tăng trưởng.
Thách thức về thực thi cũng rất lớn, từ hoàn thiện hệ thống pháp luật đến đào tạo
nguồn nhân lực, nâng cao năng lực cán bộ, công chức, chuyên gia kỹ thuật và
pháp lý. Nội dung về lao động-công đoàn cũng đặt ra những thách thức và yêu cầu
mới trong hoạt động của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và cả hệ thống chính
trị của nước ta.
Cần nhận thức sâu sắc rằng, cơ hội thuận lợi tự nó không chuyển
thành sức mạnh kinh tế, lợi ích và khả năng cạnh tranh trên thị trường mà phải
thông qua sự nỗ lực và hiệu quả hoạt động hướng đích của các chủ thể – Nhà nước,
người dân và doanh nghiệp. Khó khăn thách thức sẽ là sức ép không nhỏ nhưng mức
độ ảnh hưởng đến đâu phụ thuộc vào năng lực ứng phó của từng chủ thể. Nếu tận dụng
tốt cơ hội thuận lợi sẽ đẩy lùi được khó khăn thách thức, tạo ra cơ hội thuận lợi
mới lớn hơn; ngược lại, khó khăn thách thức sẽ lấn át, chúng ta sẽ bị thua thiệt
và rất khó khắc phục. Điều cần nhấn mạnh là, trong các Hiệp định thương mại tự
do, cơ hội luôn đi liền với thách thức và trong thách thức luôn ẩn chứa cơ hội
– đây cũng là biện chứng của tiến trình phát triển.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu
rộng, với việc hình thành Cộng đồng Kinh tế ASEAN, tham gia các Hiệp định FTA mới,
nhất là các Hiệp định thế hệ mới – TPP và FTA với EU; và trong điều kiện công
nghệ thông tin, Internet phát triển bùng nổ, các giao dịch xuyên biên giới ngày
càng chiếm tỷ trọng cao trong thương mại, dịch vụ toàn cầu; cùng với những tiến
bộ trong vận tải đa phương thức và dịch vụ logistics, ranh giới giữa thị trường
trong nước và thị trường nước ngoài gần như bị san phẳng. Hệ quả là, các mô
hình công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu hoặc hướng về xuất khẩu không còn
nguyên ý nghĩa kinh điển của nó. Nhiều quốc gia chuyển sang mô hình công nghiệp
hóa dựa trên sức cạnh tranh, khai thác và tạo lập lợi thế so sánh, chuyển lợi
thế so sánh thành lợi thế cạnh tranh, tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá
trị toàn cầu; đồng thời phấn đấu chiếm lĩnh các công đoạn có giá trị gia tăng
cao trong chuỗi giá trị đó.
Để tận dụng cơ hội thuận lợi, vượt qua khó khăn thách thức,
yêu cầu cấp bách hiện nay là phải nâng cao năng lực cạnh tranh của cả nền kinh
tế. Trong đó, cần xác định rõ vai trò và hành động của các chủ thể trong thực
thi nhiệm vụ có ý nghĩa quyết định này.
Doanh nghiệp là chủ thể quyết định sức cạnh tranh vi mô, phản
ảnh sức mạnh và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. Doanh nghiệp phải dũng cảm
chấp nhận cạnh tranh và phải chủ động, sáng tạo thực hiện đồng bộ, quyết liệt
các giải pháp để không ngừng nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ do
mình cung ứng, với tư duy không chỉ giới hạn tại thị trường trong nước mà còn
vươn ra khu vực và thế giới. Tuy vậy, doanh nghiệp không thể tự mình quyết định
được tất cả. Doanh nghiệp phải hành động trong khung khổ thể chế và môi trường
kinh doanh xác định. Điều này lại hoàn toàn phụ thuộc vào Nhà nước.
Nhiều nghiên cứu và từ thực tiễn các nước đều khẳng định rằng,
thể chế quản trị quốc gia là yếu tố quyết định nhất đến sức cạnh tranh vĩ mô và
sự phát triển của một nền kinh tế. Phát triển nhanh và bền vững hay trì trệ, tụt
hậu chủ yếu là do chất lượng thể chế. Thể chế tốt, bảo đảm nhà nước pháp quyền,
quyền dân chủ của người dân và phù hợp với kinh tế thị trường hiện đại sẽ khơi
dậy được cao nhất sức mạnh tổng hợp và các nguồn lực cho sự phát triển. Và như
vậy, thể chế có vai trò quyết định đến hiệu quả và khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp.
Để có một thể chế tốt, chất lượng cao, phải xác định đúng đắn
mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường, doanh nghiệp và xã hội. Nhà nước phải thực
hiện tốt chức năng kiến tạo phát triển, nhất là ổn định kinh tế vĩ mô; xây dựng
hệ thống pháp luật, chính sách, chiến lược, quy hoạch và tổ chức bộ máy quản lý
để tạo môi trường kinh doanh thông thoáng, minh bạch, bảo đảm quyền tự do kinh
doanh và cạnh tranh công bằng; sử dụng nguồn lực của Nhà nước, các chính sách
và công cụ điều tiết để phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ công bằng xã hội,
bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao phúc lợi xã hội và đời sống người dân; bảo vệ
môi trường; bảo đảm các dịch vụ công thiết yếu, phát triển hệ thống kết cấu hạ
tầng kinh tế-xã hội, đào tạo nguồn nhân lực và tăng cường tiềm lực quốc phòng,
giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Thị trường quyết định việc huy động, phân bổ và sử dụng hiệu
quả nguồn lực. Doanh nghiệp được tự quyết định kinh doanh trên các lĩnh vực mà
luật pháp không cấm đồng thời phải đề cao trách nhiệm xã hội và văn hóa kinh
doanh. Xã hội – thông qua người dân và các Tổ chức, các Hội nghề nghiệp đại diện
cho mình và các chuyên gia, các nhà nghiên cứu độc lập để đóng góp xây dựng, phản
biện và giám sát thực thi chính sách, nhằm hạn chế các khiếm khuyết của thị trường
và Nhà nước.
Trên cơ sở nhận thức đúng đắn các mối quan hệ trên đây, chúng
ta phải khẩn trương tiếp tục hoàn thiện thể chế, hệ thống pháp luật đáp ứng yêu
cầu của kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế và cam kết trong các Hiệp
định FTA, nhất là các FTA thế hệ mới với tinh thần đổi mới toàn diện, đồng bộ cả
kinh tế và chính trị. Tập trung mọi nỗ lực xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp
quyền của dân, do dân, vì dân và thượng tôn pháp luật. Công dân được làm những
gì mà pháp luật không cấm. Cán bộ công chức chỉ được làm và phải làm những việc
theo quy định của pháp luật.
Tiếp tục cải cách bảo đảm sự tương thích, đồng bộ giữa luật
pháp, tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ công chức. Tổ chức trùng lắp, chồng chéo
sẽ gây lãng phí nguồn lực và cản trở sự phát triển. Phải dám chấp nhận đổi mới,
vượt qua sức ỳ, sự bảo thủ để hoàn thiện hệ thống tổ chức lãnh đạo quản lý,
nâng cao năng lực quản trị quốc gia, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
trong giai đoạn phát triển mới.
Đặt việc cải thiện môi trường kinh doanh trong yêu cầu cải
cách thể chế. Thể chế tạo ra khung khổ, định ra giới hạn cho cải thiện môi trường
kinh doanh. Không thể có môi trường kinh doanh tốt nếu không có thể chế phù hợp.
Những tiến bộ trong cải cách thể chế phải được chuyển hóa đầy đủ sang cải thiện
môi trường kinh doanh. Điều này không chỉ liên quan đến tổ chức bộ máy mà còn gắn
chặt với chất lượng đội ngũ cán bộ công chức. Phải tập trung xây dựng đội ngũ
cán bộ công chức có phẩm chất và năng lực, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Đặc
biệt quan tâm đào tạo một đội ngũ cán bộ pháp lý, các nhà quản trị doanh nghiệp
đáp ứng yêu cầu hội nhập, cạnh tranh và phát triển.
Chỉ trên nền tảng đổi mới thể chế quản trị quốc gia phù hợp mới
có thể nâng cao chất lượng, hiệu quả của tiến trình tái cơ cấu, chuyển đổi mô
hình tăng trưởng, đẩy nhanh áp dụng khoa học công nghệ, tăng năng suất lao động,
nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và của cả nền kinh tế.
Cũng chỉ trên cơ sở đổi mới thể chế phù hợp mới tạo điều kiện cho quá trình
tích tụ, tập trung ruộng đất, hình thành những vùng sản xuất hàng hóa lớn và một
nền nông nghiệp sạch, có giá trị gia tăng cao, ổn định nguồn cung để có thể
tăng nhanh thị phần trên thị trường thế giới. Nếu không, sẽ không tận dụng được
cơ hội thuận lợi do TPP, FTA với EU và các FTA mới mang lại.
TPP cũng như FTA với EU yêu cầu doanh nghiệp nhà nước phải
công khai, minh bạch hoạt động và cạnh tranh công bằng với doanh nghiệp thuộc
các thành phần kinh tế khác. Phải đẩy nhanh tiến trình tái cơ cấu, nâng cao hiệu
quả của doanh nghiệp nhà nước đồng thời khuyến khích phát triển mạnh doanh nghiệp
Việt Nam, nhất là doanh nghiệp tư nhân làm động lực nâng cao sức cạnh tranh và
tính tự chủ của nền kinh tế.
Để bảo đảm thành công trong hội nhập quốc tế và thực hiện hiệu
quả các FTA, đặc biệt là TPP và FTA Việt Nam - EU, trước hết phải có Nghị quyết
của Đảng, Quốc hội và Chương trình hành động cụ thể của Chính phủ, các cấp các
ngành và của cộng đồng doanh nghiệp. Phải
làm tốt công tác thông tin truyền thông, tạo sự đồng thuận trong nhận thức, thống
nhất trong hành động, nỗ lực nâng cao năng lực cạnh tranh, đưa nền kinh tế nước
ta phát triển nhanh và bền vững.
Chúng ta đang sống trong một thời đại vận động và phát triển
rất nhanh, thế giới đang bước vào làn sóng công nghiệp lần thứ tư, tiến trình
công nghiệp hóa ngày càng được rút ngắn. Nếu có quyết tâm cao và ý chí vươn lên
mạnh mẽ, tinh thần sáng tạo và chiến lược tăng trưởng đúng đắn, không ngừng
nâng cao sức mạnh nội sinh, nước đi sau có thể đuổi kịp và vượt quốc gia đã có
trình độ phát triển cao hơn và những doanh nghiệp mới, quy mô nhỏ có thể nhanh
chóng trở thành những doanh nghiệp lớn.
Tham gia các Hiệp định này, Việt Nam còn có thêm cơ hội nâng
cao hiệu quả kinh tế nhờ tăng quy mô, tạo điều kiện hình thành những doanh nghiệp
lớn đồng thời với xu thế cá thể hóa doanh nghiệp. Đây cũng là cơ hội để nuôi dưỡng
tinh thần đổi mới, sáng tạo, khuyến khích phong trào khởi nghiệp của mọi người
dân và nâng tầm trình độ phát triển của nền kinh tế.
Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cộng đồng doanh nghiệp
chúng ta hãy nêu cao niềm tự hào dân tộc, chung sức đồng lòng, xây dựng hệ thống
chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân vững mạnh, chủ động khai thác và phát
huy tốt nhất cơ hội thuận lợi, nỗ lực vượt qua khó khăn thách thức trong hội nhập,
tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ, phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, tiến cùng thời đại, sánh vai với
các cường quốc năm châu như Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu hằng mong muốn./.

- Việt Nam đề cao hợp tác đa phương trong bối cảnh thế giới nhiều biến động
- 继续推动和提升联合国维和行动水平
- Tiếp tục đẩy mạnh, nâng tầm hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc
- 越南-联合国45周年:全面、有效的合作关系
- 45 năm Việt Nam – LHQ: Quan hệ hợp tác toàn diện và hiệu quả
- 越南与联合国关系45周年:致力于和平、合作与发展的可靠伙伴
- 45 năm quan hệ Việt Nam - Liên Hợp Quốc: Đối tác tin cậy vì hòa bình, hợp tác và phát triển
- 越柬巩固团结友好关系
- Việt Nam - Campuchia khẳng định quan hệ đoàn kết, hữu nghị
- 越老两国在发展道路上坚定不移地前进
- Việt Nam và Lào vững bước trên con đường phát triển
- 外交为国家建设、发展及可持续融入国际做出贡献
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét