Home » biendao - tiếng Việt
Thứ Tư, 21 tháng 9, 2016
Sự thật lịch sử không thể thay đổi, quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa thuộc về Việt Nam
Hoàng Sa và
Trường Sa là hai quần đảo tiền tiêu của Tổ quốc, là bộ phận không thể tách rời
của lãnh thổ Việt Nam. Quần đảo Hoàng Sa nằm trong khu vực biển có vị trí từ 15
độ 45 phút đến 17 độ 15 phút vĩ Bắc và 111 độ đến 113 độ kinh Đông, cách đảo Lý
Sơn, Quảng Ngãi khoảng 190km.
Toàn thể quần
đảo Hoàng Sa có diện tích khoảng 15.000 km vuông, gồm hơn 30 đảo nhỏ và những
bãi đá nhô khỏi mặt nước, chia thành hai nhóm chính: Nhóm Đông (Amphitrite) có
đảo lớn nhất là đảo Phú Lâm (Woody Island), dài không quá 4km, rộng khoảng 2-3
km; và Nhóm Tây (Crescent) có đảo lớn nhất là Hoàng Sa (Paracel Island), diện
tích khoảng 0,3km vuông. Đảo Phú Lâm cách đảo Hoàng Sa khoảng 87km.
Quần đảo Trường
Sa nằm trong khu vực biển ở vị trí từ 6 độ 50 phút đến 12 độ vĩ Bắc và 111 độ
30 phút đến 117 độ 20 phút kinh Đông, cách đảo Phú Quý, Bình Thuận khoảng 203
hải lý, cách Philippines khoảng 300 km và cách Trung Quốc khoảng 1.500km. Toàn
thể quần đảo Trường Sa có diện tích khoảng 160.000km vuông, gồm trên 100 đảo và
những bãi đá nhô lên mặt biển, trong đó có khoảng 26 đảo hoặc đảo đá chìm.
Là một quốc
gia biển, với chiều dài bờ biển hơn 3.260km, từ rất lâu, Biển Đông đã gắn bó mật
thiết với đời sống của người Việt Nam. Với nghề truyền thống đánh bắt thủy hải
sản, chắc chắn ngư dân Việt Nam đã phát hiện ra các quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa ngay từ thuở bình minh dựng nước. Tuy nhiên, do điều kiện địa lý và lịch sử
cũng như phương tiện kỹ thuật thời bấy giờ chưa cho phép con người có thể định
cư lâu dài trên những đảo này.
Từ thế kỷ
17, khi nhà nước phong kiến Việt Nam đã phát hiện Bãi Cát Vàng trên Biển Đông tức
Hoàng Sa và Trường Sa thì hai quần đảo này vẫn vô chủ. Kể từ đó, nhà nước phong
kiến Việt Nam đã chiếm hữu, khai thác và quản lý các đảo đó một cách liên tục.
Vì là đảo vô
chủ, các vua chúa nước ta phát hiện trước tiên và chiếm hữu một cách hòa bình.
Chủ quyền của nước ta đối với các quần đào Hoàng Sa và Trường Sa được khẳng định,
duy trì và củng cố ít nhất trong 3 thế kỷ liên tục từ thời các chúa Nguyễn đến
sau khi Pháp thiết lập chế độ đô hộ năm 1884.
Từ năm Thái
Đức thứ 9 (1786), ngày 14 tháng 2 âm lịch, chính quyền Tây Sơn ra quyết định
sai phái Hội đức hầu cai đội Hoàng Sa cưỡi bốn chiếc thuyền câu vượt biển ra thẳng
Hoàng Sa cùng các xứ cù lao ngoài biển.
Ngoài đội
Hoàng Sa là đội dân binh làm kinh tế biển xa bờ, người ta còn thấy thời Tây Sơn
còn rất nhiều đội khác khai thác kinh tế Biển Đông, như ở Cù Lao Ré đã lập đội
Quế Hương, đội Đại Mạo Hải Mao và đội Quế Hương Hàm với số đinh 30 người.
Sau khi đánh
bại Tây Sơn và lên ngôi Hoàng Đế, tháng 7 năm Quý Hợi (1803), Vua Gia Long đã
cho lập lại “đội Hoàng Sa” lấy người từ xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, phủ Quảng
Ngãi ra quần đảo Hoàng Sa thâu lượm hàng hóa, khí cụ trên các tàu mắc cạn và
đánh bắt hải sản quý hiếm mang về dâng nộp.
Cho tới cuối
thời Tây Sơn, đầu thời Nguyễn dân xã An Vĩnh ở đất liền hay ở Cù Lao Ré vẫn là
quê hương đi đầu làm kinh tế biển. Sau đó, Vua Gia Long lại tổ chức thêm “đội Bắc
Hải” lấy người thôn Tứ Chính hoặc xã Cảnh Dương, phủ Bình Thuận, cấp giấy phép
ra quần đảo Trường Sa với cùng nhiệm vụ như đội Hoàng Sa.
Đội Hoàng Sa
(hoạt động cả tại quần đảo Trường Sa) là một mô hình tổ chức nhà nước từ thời
các chúa Nguyễn, có quy chế tổ chức và hoạt động rõ ràng, có nhiệm vụ bảo vệ,
tuần tra, trồng cây, đo đạc thủy triều, thu lượm hải sản về nộp cho triều đình.
Đội hoạt động liên tục 6 tháng trong năm.
Từ năm 1816,
Nhà Nguyễn dùng thủy quân khai thác, quản lý Biển Đông. Tuy không tiếp tục khai
thác biển, phát triển kinh tế biển như đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải, song hoạt động
đầu tiên của thủy quân được coi là mốc đánh dấu việc tái xác lập và thực thi chủ
quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa.
Hành động
này biểu thị cho việc vua Gia Long chính thức khẳng định chủ quyền với việc nhà
vua bắt đầu quản lý Hoàng Sa bằng lực lượng quân sự chính quy của Nhà nước. Sau
đó, các đội thủy quân được đều đặn cử ra Hoàng Sa, Trường Sa làm nhiệm vụ đo đạc
thủy trình, cắm cột mốc, dựng bia xác định chủ quyền…
Các hoạt động
này được ghi nhận trong nhiều tài liệu lịch sử như “Phủ biên tạp lục” của Lê
Quý Đôn (1776), “Lịch triều Hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú (1821), “Đại
Nam thực lục chính biên” (1844-1848), “Hoàng Việt dư địa chí” (1834).
Những tư liệu
vừa mới phát hiện gần đây là những minh chứng hùng hồn về sự chiếm hữu liên tục
và thật sự của nước ta đối với Hoàng Sa và Trường Sa (nguyên bản tờ Lệnh ngày
15/4/1834 của vua Minh Mạng điều động binh phu từ đảo Lý Sơn ra bảo vệ Hoàng
Sa; nguyên bản tờ Tấu ngày 12/5/1932 lên vua Bảo Đại tặng thưởng Huân chương
cho một binh sỹ đóng đồn phòng thủ Hoàng Sa).
Ngoài ra, hoạt
động của triều đình phong kiến Việt Nam trên hai quần đảo cũng được nhắc đến
trong các tác phẩm nước ngoài như “An Nam đại quốc họa đồ” (1838) và “Nhật ký
Batavia” của Công ty Hà Lan Đông Ấn (Compagnie Hollandaise des Indes
Orientales) (1936).
Như vậy,
thông qua việc tổ chức khai thác tài nguyên trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa liên tục hàng thế kỷ, trên thực tế cũng như về pháp lý, nhà Nguyễn đã làm chủ
hai quần đảo từ khi hai quần đảo này còn chưa thuộc về lãnh thổ của bất kỳ quốc
gia nào và biến hai quần đảo từ vô chủ thành bộ phận không thể tách rời của
lãnh thổ Việt Nam.
Lịch sử đã
chứng minh, cho đến ngày bị thực dân Pháp đô hộ, các triều đại phong kiến Việt
Nam đã thực sự thực thi chủ quyền và cai quản hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa mà không có một nước nào cạnh tranh và nhất quán coi các đảo này thuộc chủ
quyền của Việt Nam.
Thậm chí,
các triều đại phong kiến Trung Quốc đã mặc nhiên công nhận quyền cai quản của
Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, không những không phản đối mà
có lúc còn giúp đỡ một số đội viên đội Hoàng Sa bị bão đánh dạt vào cảng Thanh
Lam (đảo Hải Nam) và đưa họ trở về Thuận Hóa.
Với công ước
Pháp-Thanh Thiên Tân năm 1884, Trung Quốc đã công nhận quyền cai trị của Pháp ở
Việt Nam. Trên cơ sở đại diện cho triều đình phong kiến An Nam, Pháp đã có nhiều
hành động củng cố chủ quyền Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa bằng việc tiến hành
tuần tra, kiểm soát và đưa quân ra chiếm đóng trên các đảo. Để quản lý hành
chính, chính quyền lúc đó đã sáp nhập quần đảo Trường Sa vào tỉnh Bà Rịa và
thành lập đơn vị hành chính ở quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Thừa Thiên, cho xây
dựng nhiều công trình trên cả hai quần đảo.
Mãi đến đầu
thế kỷ 20, năm 1909, trước sự đe dọa của Nhật Bản, nhà đương cục Trung Quốc mới
bắt đầu chú ý đến quần đảo Hoàng Sa. Trong những năm 1928, 1932, Trung Quốc mới
bộc lộ ý đồ tranh giành chủ quyền với chính quyền bảo hộ Pháp.
Cho đến hết
chiến tranh thế giới thứ nhất, đòi hỏi của nhà đương cục Trung Quốc cũng chỉ nhằm
vào quần đảo Hoàng Sa. Trong suốt thời kỳ Pháp thuộc, với tư cách là quốc gia kế
thừa, Pháp tiếp tục khẳng định quan hệ chủ quyền và phản đối những yêu sách của
Trung Quốc. Trong chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản đã chiếm một số đảo
trên dãy Hoàng Sa và Trường Sa (gọi là Shinnan Shoto) để làm căn cứ quân sự.
Sau chiến
tranh thế giới thứ hai, lợi dụng danh nghĩa giải giáp quân đội Nhật Bản, năm
1947, quân đội Tưởng Giới Thạch đổ bộ lên đảo Phú Lâm (thuộc Nhóm Đông của quần
đảo Hoàng Sa) và đảo Ba Bình (Itu Aba) của quần đảo Trường Sa, trong khi đó,
quân đội Pháp đóng ở đảo Hoàng Sa (thuộc Nhóm Tây của quần đảo Hoàng Sa) và một
số đảo khác của quần đảo Trường Sa.
Ngày
8/3/1949, Pháp công nhận độc lập thống nhất của Việt Nam và ngày 14/10/1950,
Pháp chính thức trao việc phòng thủ quần đảo Hoàng Sa cho Việt Nam. Ngày
6/9/1951, tại Hội nghị San Francisco, ông Trần Văn Hữu, Thủ tướng kiêm Ngoại
trưởng chính quyền Bảo Đại, trưởng phái đoàn Việt Nam lúc đó đã tuyên bố xác nhận
chủ quyền trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa sau khi Nhật đã trả lại tất cả
những lãnh thổ họ đã chiếm cứ trong chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945).
Không có nước nào trong số 51 nước tham dự hội nghị phản đối sự tái xác nhận chủ
quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Sau khi Hiệp
định Geneva năm 1954 được ký kết, ngày 28/4/1956, quân đội viễn chinh Pháp rút
khỏi Đông Dương, chính quyền Sài Gòn vẫn duy trì lực lượng đồn trú bảo vệ quần
đảo Hoàng Sa. Năm 1957, các lực lượng thủy quân lục chiến của quân đội Sài Gòn
đã được đưa ra quần đảo Trường Sa và quần đảo Hoàng Sa làm nhiệm vụ bảo vệ các
quần đảo thay thế cho các đơn vị đồn trú trước đây. Năm 1963, chính quyền Sài
Gòn đã cho dựng các bia chủ quyền trên các đảo Trường Sa, An Bang, Loại Ta, Thị
Tứ, Song Tử Đông, Song Tử Tây.
Tháng
4/1956, khi Pháp rút quân khỏi Đông Dương, chính quyền Sài Gòn đã thay thế quân
Pháp tại phần phía Tây quần đảo Hoàng Sa, không ra kịp phần phía Đông, cho nên
phần này bị quân đội Trung Quốc chiếm giữ.
Ngày
8/6/1956, Bộ trưởng Ngoại giao Sài Gòn tuyên bố chủ quyền của Việt Nam đối với
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Chính quyền Sài Gòn đã quyết định sáp nhập quần
đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Thừa Thiên vào xã Định Hải thuộc quận Hòa Vang, tỉnh Quảng
Nam và quyết định quần đảo Trường Sa được sáp nhập vào xã Phước Hải, quận Đất Đỏ,
tỉnh Phước Tuy.
Như vậy, từ
sau khi Pháp rút khỏi Đông Dương cho tới tháng 4/1975, chính quyền Sài Gòn và
sau đó là Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã tiến hành
những hoạt động thực hiện chủ quyền Nhà nước Việt Nam đối với hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa một cách thực sự, liên tục.
Tháng 1/1974
khi Trung Quốc dùng vũ lực chiếm đóng nhóm đảo phía Tây của quần đảo Hoàng Sa,
chính quyền Sài Gòn đã ra tuyên bố lên án Bắc Kinh dùng vũ lực xâm chiếm quần đảo
Hoàng Sa của Nam Việt Nam, xâm phạm toàn vẹn lãnh thổ của Nam Việt Nam.
Từ ngày
14/4/1975 đến ngày 29/4/1975, Hải quân Nhân dân Việt Nam đã lần lượt giải phóng
các hòn đảo trong quần đảo Trường Sa do Quân đội Sài Gòn đóng giữ gồm các đảo
Song Tử Tây, Sơn Ca, Nam Yết, Sinh Tồn, Trường Sa và An Bang.
Sau đó các
đơn vị hải quân ta tiếp tục tổ chức việc bảo vệ quần đảo Trường Sa trên nhiều
hòn đảo khác. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng và thống nhất đất nước,
Chính phủ Việt Nam đã nhiều lần khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần
đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa và đã ban hành nhiều văn bản thực hiện chủ
quyền của mình đối với hai quần đảo này.
Ngày
1/8/2012, Bảo tàng Lịch sử Quốc gia đã chính thức trưng bày tấm bản đồ Hoàng
Triều trực tỉnh địa dư toàn đồ do Triều Thanh, Trung Quốc xuất bản tại Thượng Hải
năm 1904. Tấm bản đồ, do chính Triều Thanh, Trung Quốc đo đạc và xác định hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa không hề thuộc chủ quyền của Trung Quốc.
Đây là bằng
chứng không thể chối cãi về chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa của Việt Nam bởi chính Triều đại Nhà Thanh cũng đã tự khẳng định điều đó qua
tấm bản đồ do họ vẽ.
Như vậy, qua
nghiên cứu chứng cứ lịch sử, kể từ chế độ phong kiến đến khi Pháp rút khỏi Đông
Dương cho đến ngày miền Nam nước ta hoàn toàn giải phóng, Nhà nước Việt Nam qua
các thời đại đã tiến hành những hoạt động thực hiện chủ quyền đối với hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa một cách thực sự và liên tục.
Với những
tài liệu và chứng cứ lịch sử đã nêu ở trên chúng ta hoàn toàn có cơ sở để khẳng
định rằng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là bộ phận không thể tách rời của
lãnh thổ Việt Nam. Chủ quyền đó cần phải được tôn trọng và thực thi theo luật
pháp và tập quán quốc tế./.
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét