Home » biendao - tiếng Việt
Thứ Ba, 31 tháng 1, 2017
Kỳ 4: Cộng đồng quốc tế đã công nhận sự quản lý của Việt Nam
QĐND - Về
tính liên tục của sự chiếm hữu thực sự, Tiến sĩ Trần Công Trục đưa ra một số mốc
lịch sử hết sức cụ thể, có ý nghĩa: Với tư cách là đại diện Nhà nước Việt Nam về
đối ngoại trong thời kỳ Việt Nam là thuộc địa của Pháp, Cộng hòa Pháp đã tiếp tục
thực thi chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Theo Hiệp ước
Patenotre năm 1884, Chính quyền thuộc địa Pháp đã tiến hành các hoạt động đại
diện cho Nhà nước Việt Nam trong việc tiếp tục bảo vệ, quản lý và khẳng định chủ
quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Cụ thể, sau
một thời gian tổ chức các cuộc nghiên cứu, khảo sát tại thực địa của các nhà
khoa học và những cuộc trao đổi giữa những chính khách Pháp có liên quan đến quần
đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, ngày 8-3-1925, Toàn quyền Đông Dương đã
tuyên bố khẳng định, quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là bộ phận lãnh thổ
thuộc địa của Pháp. Ngày 19-3-1926, Thống
đốc Nam Kỳ cấp giấy phép nghiên cứu mỏ ở đảo Trường Sa cho Công ty Phosphat của
Bắc Kỳ.
Ngày
13-4-1930, Thông báo hạm Malicieuse do thuyền trưởng De Lattre điều khiển ra quần
đảo Trường Sa theo chỉ thị của Toàn quyền Đông Dương dựng bia chủ quyền, đóng
giữ đảo Trường Sa và các đảo, đá, bãi phụ thuộc. Ngày 23-9-1930, Chính phủ Pháp
gửi thông báo ngoại giao cho các cường quốc về sự kiện đóng giữ quần đảo Trường
Sa theo đúng thủ tục. Ngày 31-12-1930, Phòng Đối ngoại Phủ Toàn quyền Đông Dương gửi báo cáo lên Thủ tướng,
Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp về những hoạt động đóng giữ đảo Trường Sa và các đảo
phụ cận, cũng như các tư liệu khảo cứu về pháp lý bảo vệ cho sự kiện đóng giữ
này.
Ngày
4-1-1932, Chính phủ Pháp gửi Công hàm tới Công sứ Trung Quốc tại Paris khẳng định
chủ quyền của Pháp đối với Hoàng Sa và đề nghị giải quyết tranh chấp thông qua
đàm phán hữu nghị hoặc bằng phương thức trọng tài quốc tế. Trung Quốc từ chối đề
nghị này.
Ngày
18-2-1937, Pháp lại chính thức yêu cầu Trung Quốc áp dụng phương thức trọng tài
quốc tế để xác định chủ quyền quần đảo Hoàng Sa; Trung Quốc lại khước từ.
Ngày
26-11-1937, Pháp phái kỹ sư trưởng J. Gauthier ra Hoàng Sa để nghiên cứu tìm địa
điểm xây dựng đèn biển, bãi đỗ cho thủy phi cơ, nghiên cứu các điều kiện định
cư ở quần đảo này. Năm 1938, Pháp phái các đơn vị Bảo an đến đồn trú trên các đảo
và xây dựng một hải đăng, một trạm khí tượng được Tổ chức Khí tượng Thế giới
cho đăng ký với số hiệu là 48859 ở đảo Phú Lâm, một trạm vô tuyến điện TSF trên
đảo Hoàng Sa.
Ngày 15-6-1938,
Pháp xây xong trạm khí tượng ở đảo Ba Bình, quần đảo Trường Sa. Ngày 30-3-1938,
vua Bảo Đại ký Dụ số 10 sáp nhập Hoàng Sa vào tỉnh Thừa Thiên thay vì Nam Ngãi
trước đây. Ngày 15-6-1938, Toàn quyền Đông Dương Jules Brevie ký Nghị định 156-S-V thành lập
đơn vị hành chính cho quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Thừa Thiên.
Tháng
6-1938, một đơn vị lính Bảo an Việt Nam được phái ra đồn trú tại quần đảo Hoàng
Sa. Một bia chủ quyền đã được dựng tại đảo Hoàng Sa có khắc dòng chữ:
“Republique Francaise-Empire d’Annam-Achipel de Paracel 1816-Ile de Pattle
1938”.
Trong Chiến
tranh thế giới lần thứ hai, Nhật Bản tuyên bố sáp nhập các quần đảo trong Biển
Đông vào các vùng lãnh thổ mà Nhật đã chiếm đóng. Ngày 4-4-1939, Chính phủ Pháp
gửi Công hàm phản đối các quyết định nói trên của Nhật và bảo lưu quyền của
Pháp tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Ngày
15-8-1945, Nhật thua trận phải rút khỏi Đông Dương và ngày 26-8-1945, quân đội
Nhật phải rút khỏi quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.
Sau khi Nhật
rút đi, mở ra một thời kỳ mới vô cùng phức tạp. Tiến sĩ Trục cho biết, trong
hoàn cảnh lịch sử cuối năm 1946, đầu năm 1947, mặc dù Việt Nam đã tuyên bố độc
lập ngày 2-9-1945, không còn ràng buộc vào Hiệp định Patenotre 1884, song Pháp
cho rằng, theo Hiệp định Sơ bộ ngày 6-3-1946, Việt Nam Dân chủ cộng hòa còn nằm
trong khối Liên hiệp Pháp, về ngoại giao vẫn thuộc Pháp nên Pháp có nhiệm vụ thực
thi quyền đại diện Việt Nam trong vấn đề chống lại mọi xâm phạm chủ quyền của
Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.
Theo Hiệp định
ngày 8-3-1949, Pháp dựng lên chính quyền thân Pháp, gọi là Quốc gia Việt Nam do
cựu hoàng Bảo Đại đứng đầu. Tuy nhiên, trong thực tế quân đội Pháp vẫn làm chủ
Biển Đông, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Cũng trong năm 1949,
Tổ chức Khí tượng Thế giới đã chấp nhận đơn xin đăng ký danh sách các trạm khí
tượng do Pháp xây dựng tại quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa vào danh
sách các trạm khí tượng thế giới: Trạm Phú Lâm, số hiệu 48859, Trạm Hoàng Sa số
48860, Trạm Ba Bình số 48419.
Ngày
14-10-1950, Tổng trấn Trung phần Phan Văn Giáo đã chủ trì việc bàn giao quản lý
quần đảo Hoàng Sa giữa Chính phủ Pháp và Chính phủ Bảo Đại.
Từ ngày 5-9
đến 8-9-1951, Hội nghị San Francisco có đại diện của 51 nước tham dự để ký kết
Hòa ước với Nhật. Tại phiên họp toàn thể mở rộng ngày 5-9, với 48 phiếu chống,
3 phiếu thuận, hội nghị đã bác bỏ đề nghị của Ngoại trưởng Gromyco (Liên Xô cũ)
về việc tu chỉnh khoản 13 của Dự thảo Hòa ước, trong đó có nội dung: Nhật thừa
nhận chủ quyền của CHND Trung Hoa đối với quần đảo Hoàng Sa và những đảo xa hơn
nữa về phía Nam.
Ngày
7-9-1951, Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng của Chính phủ Quốc gia Việt Nam Trần Văn
Hữu đã long trọng tuyên bố hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ của
Việt Nam. Không một đại biểu nào trong hội nghị này có bình luận gì về tuyên bố
này. Ngày 8-9-1951, Hòa ước với Nhật được ký kết. Điều 2, Đoạn 7, của Hòa ước
đã ghi rõ: “Nhật Bản từ bỏ chủ quyền, danh nghĩa và tham vọng đối với các quần
đảo Paracel và Sprathly” (khoản f).
Ngày
20-7-1954, Hiệp định Geneve được ký kết đã công nhận một nước có nền độc lập,
chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và thống nhất. Điều 1 của Hiệp định đã quy định lấy
sông Bến Hải (vĩ tuyến 17) làm giới tuyến
tạm thời để phân chia quyền quản lý lãnh thổ giữa hai miền Nam-Bắc của Việt
Nam. Giới tuyến tạm thời này cũng được kéo dài bằng một đường thẳng từ bờ biển
ra ngoài khơi (Điều 4). Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa nằm dưới vĩ tuyến
17 nên thuộc quyền quản lý của chính quyền miền Nam Việt Nam.
Tháng
4-1956, khi quân đội viễn chinh Pháp rút khỏi Đông Dương, quân đội Quốc gia Việt
Nam, về sau là Việt Nam Cộng hòa, đã ra tiếp quản nhóm phía Tây quần đảo Hoàng
Sa.
Trước những
hành động xâm chiếm một số đảo ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa do Trung Quốc
tiến hành vào thời điểm giao thời này, Chính phủ Việt Nam Cộng hòa đã lên tiếng
phản đối. Ngày 24-5 và 8-6-1956, Chính phủ Việt Nam Cộng hòa ra thông cáo nhấn
mạnh, quần đảo Hoàng Sa cùng với quần đảo Trường Sa “luôn luôn là một phần của
Việt Nam” và tuyên bố khẳng định chủ quyền từ lâu đời của Việt Nam.
Ngày
13-7-1971, tại Hội nghị ASPEC Manila, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Cộng hòa Trần
Văn Lắm đã tuyên bố khẳng định quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa thuộc chủ
quyền Việt Nam.
Từ ngày 17-1
đến 20-1-1974, Trung Quốc huy động lực lượng quân sự đánh chiếm nhóm phía Tây quần
đảo Hoàng Sa. Trên mặt trận ngoại giao, Việt Nam Cộng hòa đã lên tiếng phản đối
mạnh mẽ trước Liên hợp quốc và cộng đồng quốc tế.
Cũng trong
thời gian này, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã tuyên
bố nêu rõ lập trường của mình trước sự kiện này.

- Tọa đàm về vấn đề Biển Đông trước thềm Hội nghị cấp cao ASEAN 30
- Chính sách Biển Đông của Lào: Nguyên nhân và tác động (phần 3)
- Chính sách Biển Đông của Lào: Nguyên nhân và tác động (phần 2)
- Chính sách Biển Đông của Lào: Nguyên nhân và tác động (phần 1)
- Thượng đỉnh Manila: ASEAN sẽ dịu giọng về Biển Đông?
- Vai trò của Singapore trong tranh chấp Biển Đông (phần 3)
- Vai trò của Singapore trong tranh chấp Biển Đông (phần 2)
- Vai trò của Singapore trong tranh chấp Biển Đông (phần 1)
- Việt Nam sẵn sàng đóng góp thúc đẩy đối thoại, hợp tác để duy trì an ninh trên biển
- Cách thức để Mỹ ngăn chặn bước tiến trên biển của Trung Quốc: Chuyển hướng Chính sách (phần 1)
- Bộ Ngoại giao Việt Nam: Trung Quốc cần hành động có trách nhiệm
- Tư lệnh Mỹ: Tàu hải quân sẽ tăng thời gian lưu lại Biển Đông
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét