Home »
Thứ Sáu, 31 tháng 3, 2017
越南在东海的硬实力与软实力(第 2 期)
Chiến lược của
Việt Nam
Theo ông
Vuving, không một chiến lược đơn lẻ nào có thể miêu tả cách thức Việt Nam xử lý
vấn đề Biển Đông. Thay vào đó, Việt Nam sử dụng rất nhiều cách tiếp cận với rất
nhiều công cụ từ sức mạnh cứng đến sức mạnh mềm. Ít nhất có thể xác định được bảy
chiến lược riêng biệt.
Thứ nhất, Việt
Nam củng cố lực lượng và sự hiện diện của mình trên Biển Đông cả về quân sự lẫn
phi quân sự. Kể từ năm 1988, Việt Nam đã củng cố vị trí vững chắc trên quần đảo
Trường Sa, và đã thiết lập các đơn vị đồn trú thường trực trên 11 thực thể,
tăng sở hữu từ 10 lên 21 thực thể. Từ 1989 đến 1991, Việt Nam đã kiểm soát thực
tế 6 bãi ngầm ở thềm lục địa phía tây nam quần đảo Trường Sa bằng cách xây dựng
những nhà giàn và đóng các đơn vị đồn trú tại đó.
Chậm rãi
nhưng chắc chắn, Việt Nam tiếp tục củng cố và tăng cường sự hiện diện ở những
khu vực này với nhân lực, thiết bị, cơ sở vật chất và tạo điều kiện cho dân
sinh sống. Từ năm 2007, Việt Nam bắt đầu cho dân cư ra sinh sống trên hòn đảo lớn
nhất thuộc quần đảo Trường Sa. Năm 2012, Việt Nam quyết định thành lập lực lượng
Kiểm ngư chịu trách nhiệm giám sát nguồn hải sản ngoài khơi như lực lượng thứ
ba, sau hải quân và cảnh sát biển. Những lực lượng này tăng cường tuần tra các
vùng biển, nhất là sau năm 2014 với cuộc khủng hoảng giàn khoan Hải Dương 981.
Nhằm xây dựng
lực lượng răn đe tối thiểu trên biển, Việt Nam tiếp tục hiện đại hóa hải quân
và không quân. Nhân tố quan trọng trong lực lượng răn đe này là hạm đội tàu ngầm
đang được xây dựng với 6 chiếc tàu ngầm lớp Kilo mua của Nga.
Thứ hai, Việt
Nam cũng nhận thức được rằng không thể chỉ phụ thuộc vào lực lượng quân sự để
ngăn chặn kẻ gây hấn. Một chiến lược đền bù cho sự thiếu hụt này là kéo một bên
thứ ba có sức mạnh tham gia vào. Tuy nhiên việc áp dụng chiến lược này của Việt
Nam lại hạn chế với ngành công nghiệp khai thác dầu khí trên Biển Đông. Việt
Nam lựa chọn phương án hợp tác khai thác các lô dầu khí trên Biển Đông cùng với
các công ty lớn từ các cường quốc, điều mà Hà Nội vẫn làm với ExxonMobil của Mỹ,
ONGC của Ấn Độ, và Gazprom của Nga. Tuy nhiên, Việt Nam trung thành với cam kết
sẽ không hình thành liên minh với bất kỳ nước nào để chống lại bên thứ ba.
Thứ ba, thay
vì thành lập liên minh với các đối tác mạnh, Việt Nam nhấn mạnh nhiều hơn vào
việc quốc tế hóa vấn đề Biển Đông. Trong những năm 1990 và 2000, Việt Nam là nước
khiêm tốn nhất trong các nỗ lực nhằm quốc tế hóa vấn đề Biển Đông. Nhưng trước
sự hung hăng ngày càng tăng của nước láng giềng khổng lồ trong khu vực kể từ
năm 2008, Việt Nam đã ngày càng trở nên chủ động và quyết tâm đem vấn đề này ra
trước dư luận quốc tế và tranh thủ sự hỗ trợ từ các nước đối tác.
Chuyên gia
Vuving ghi nhận, các hội nghị quốc tế về vấn đề Biển Đông đã được tổ chức thường
xuyên ở Việt Nam kể từ năm 2009. Việt Nam đã cố gắng đưa vấn đề này vào chương
trình nghị sự và là một phần trong các tuyên bố chung với các nước. Kể từ các
cuộc họp của ASEAN và ARF, các diễn đàn quốc tế như EAS, APEC, Liên hợp quốc và
ASEM đã trở thành những chiến trường ngoại giao về tranh chấp biển Đông.
Thứ năm, một
cách tiếp cận mềm mỏng hơn đó là tự kiềm chế. Việc tự kiềm chế để trấn an Trung
Quốc là nhân tố quan trọng trong cách tiếp cận vấn đề Biển Đông của Việt Nam.
Theo chuyên gia Vuving, các nhà lãnh đạo và các nhà chiến lược quân sự cho rằng
Trung Quốc, ý thức được sức mạnh vượt trội của mình, sẽ chiếm lấy thời cơ khi
Việt Nam để mình bị kích động leo thang xung đột và sẽ áp đảo. Nhưng với Việt
Nam, tự kiềm chế không chỉ là một thủ thuật để tránh bị khiêu thích mà còn là
cách tiếp cận có hệ thống dựa trên niềm tin rằng mình có thể thuyết phục Trung
Quốc về mong muốn hòa bình.
Để trấn an
Trung Quốc, Việt Nam cũng đơn phương đặt ra giới hạn hành động cho mình. Một ví
dụ rõ nhất chính là ‘chính sách ba không’: không tham gia vào liên minh quân sự
nào; không cho phép nước nào đặt căn cứ quân sự trên lãnh thổ Việt Nam và không
liên minh với nước khác để chống lại một nước thứ ba.
Thứ sáu, mềm
mỏng hơn chính sách tự kiềm chế, chính sách ngăn chặn cũng là nhân tố quan trọng
trong chiến lược của Việt Nam với Trung Quốc.
Rất nhiều lãnh đạo và các nhà chiến lược cho rằng việc kiềm chế kết hợp
với ngăn chặn sẽ là chìa khóa cho khả năng trường tồn của Việt Nam trước tham vọng
của người hàng xóm trong hàng nghìn năm. Chiến lược linh hoạt thể hiện Việt Nam
chấp nhận vị thế khiêm tốn trước Trung Quốc, giữ thể diện cho đối tác nhưng mặt
khác Hà Nội cũng rất kiên quyết trong những vấn đề nguyên tắc đối với Trung Quốc.
Sự linh hoạt
“biết mình biết người” đó có thể kể đến chuyến thăm Trung Quốc của Phó Thủ tướng
kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh và Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang
Thanh sau cuộc khủng hoảng giàn khoan Hải Dương 981. Bộ trưởng Phạm Bình Minh
đã dự hội chợ thương mại tại Nam Ninh, Trung Quốc, trước khi tới Mỹ vào tháng
9/2014. Vào tháng 10, ông Phùng Quang Thanh đã dẫn đầu phái đoàn gồm 13 quan chức
quân sự cấp cao tới Trung Quốc, trước chuyến thăm Việt Nam của Bộ trưởng Quốc
phòng Mỹ tháng 11/2014.
Thứ bảy, đó
là sự tin tưởng của Việt Nam vào sợi dây liên kết ý thức hệ. Trong khi chuẩn bị
đối phó với Trung Quốc ở Biển Đông, Việt Nam hi vọng sợi dây liên kết ý thức hệ
sẽ ngăn chặn được kịch bản tồi tệ nhất và phục vụ cho việc cô lập, phân chia và
giảm mức độ cuộc xung đột. Căn cứ vào tình đoàn kết giữa hai nước, chiến lược
này nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ của các lãnh đạo quân sự và đảng cầm quyền. Những
suy nghĩ tiềm ẩn được tuyên bố rõ ràng nhất bởi tướng Lê Văn Dũng, Chủ nhiệm Tổng
cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam. Trong một cuộc phỏng vấn vào tháng
12/2009, ông Dũng cho hay: “Khi xem xét vấn đề của Việt Nam với Trung Quốc ở Biển
Đông, chúng tôi cố gắng hết sức để giải quyết và trong tương lai gần, chúng tôi
sẽ thảo luận, đàm phán và phân định ranh giới rõ ràng trên biển với nước láng
giềng. Do đó tình hình sẽ dần ổn định hơn và chúng tôi sẽ củng cố quan hệ với
Trung Quốc để đối phó với những thách thức chung”.
Cho dù Trung
Quốc ngày càng hung hăng trên Biển Đông, đáng chú ý nhất là việc hạ đặt giàn
khoan HD-981 ở vùng biển của Việt Nam giữa năm 2014 đã gần như phá vỡ sự tin tưởng
của Việt Nam đối với Trung Quốc, các lãnh đạo quân sự của Việt Nam vẫn hy vọng
sự đoàn kết như một chiến lược để giải quyết vấn đề Biển Đông với Trung Quốc,
ông Vuving đánh giá.
Theo chuyên
gia Vuving, giai đoạn giữa 1990 và 2008, Việt Nam thực hiện rất ít những hành động
nhằm quốc tế hóa vấn đề. Các chiến lược nổi bật nhất trong suốt khoảng thời
gian đó là việc củng cố quân đội, sự hiện diện, sự tự kiềm chế và tinh thần
đoàn kết. Căng thẳng tăng lên từ 2009 đã thay đổi cường độ và phạm vi các chiến
lược của Việt Nam, với trọng tâm hiện nay là củng cố lực lượng, sự hiện diện và
sự quốc tế hóa. Nhìn chung, cách tiếp cận của Việt Nam đối với vấn đề Biển Đông
kết hợp giữa ngăn chặn với trấn an.

- Không có bài viết liên quan
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét