Home » vanhoa
Chủ Nhật, 31 tháng 12, 2017
Thành tựu tự do tôn giáo ở Việt Nam là không thể phủ nhận
Ở Việt Nam, quyền tự do tôn giáo được khẳng định bằng
luật pháp. Việt Nam là quốc gia đa dân tộc và tôn giáo. Đảng, Nhà nước Việt Nam
luôn nhất quán quan điểm “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ
phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc”; từ đó, kiên trì chính sách tôn
trọng và đảm bảo quyền tự do, tín ngưỡng tôn giáo của mọi người dân và đã đạt
được những kết quả tốt đẹp. Các hoạt động tôn giáo ở Việt Nam phát triển tích cực,
ổn định; đồng bào có đạo ngày càng tin tưởng vào chủ trương, đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước. Các bản Hiến pháp của Nhà nước ta đều quy định rõ về
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân. Điều 24, Hiến pháp nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định: “(1) Mọi người có quyền tự do
tín ngưỡng. (2) Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
(3) Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng,
tôn giáo để vi phạm pháp luật”. Cùng với đó, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
còn được cụ thể hóa trong nhiều văn bản pháp luật khác của Nhà nước ta, như: Luật
Tổ chức Chính phủ, Bộ luật Dân sự, hoặc trong các văn bản dưới luật để hướng dẫn
mọi tổ chức, cá nhân thực hiện nghiêm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Pháp lệnh
Tín ngưỡng, tôn giáo được Ủy ban Thường vụ Quốc hội (khóa XI) thông qua ngày
18-6-2004, Ðiều I quy định: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo
hoặc không theo một tôn giáo nào. Nhà nước bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo của công dân. Không ai được xâm phạm quyền tự do ấy. Các tôn giáo đều bình
đẳng trước pháp luật. Công dân có tín ngưỡng, tôn giáo hoặc không có tín ngưỡng,
tôn giáo cũng như công dân có tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau phải tôn trọng lẫn
nhau”.
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam chịu sự ảnh
hưởng của nền văn hóa Việt và nằm trong khuôn khổ pháp luật. Các hoạt động tín
ngưỡng, tôn giáo phù hợp văn hóa dân tộc, trong phạm vi pháp luật. Ðiều 8, Pháp
lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo, một mặt khẳng định: “Không được phân biệt đối xử vì
lý do tín ngưỡng, tôn giáo; vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công
dân”; mặt khác, quy định phạm vi, giới hạn của quyền ấy: “Không được lợi dụng
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để phá hoại hòa bình, độc lập, thống nhất đất
nước; kích động bạo lực hoặc tuyên truyền chiến tranh, tuyên truyền trái với
pháp luật, chính sách của Nhà nước; chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, chia
rẽ tôn giáo; gây rối trật tự công cộng, xâm hại đến tính mạng, sức khỏe, nhân
phẩm, danh dự, tài sản của người khác, cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ
công dân; hoạt động mê tín dị đoan và thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật
khác”. Ðiều 9 của Pháp lệnh cũng quy định: “Trong hoạt động tín ngưỡng, tôn
giáo, người có tín ngưỡng, tín đồ có trách nhiệm tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của người khác; thực hiện
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo không cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ
công dân; hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo theo đúng quy định của pháp luật”. Như
vậy, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam luôn được Đảng, Nhà nước thừa
nhận, tôn trọng và bảo hộ. Việc cho rằng, Đảng, Nhà nước Việt Nam thực hiện chính
sách kỳ thị tôn giáo, vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là thiếu khách
quan, cố tình xuyên tạc thực tế, có mục đích xấu, cần phải lên án, bác bỏ.
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam được đảm bảo
trên thực tế. Theo thống kê chưa đầy đủ, khoảng 95% dân số Việt Nam có đời sống
tín ngưỡng. Hiện nay, nước ta có 13 tôn giáo với 36 tổ chức tôn giáo và 01 pháp
môn tu hành đã được công nhận và cấp đăng ký hoạt động, với khoảng 30 triệu tín
đồ, trên 100 nghìn chức sắc, chức việc, nhà tu hành, hàng chục cơ sở đào tạo chức
sắc tôn giáo, hàng chục nghìn cơ sở thờ tự, v.v. Hằng năm, có khoảng 8.500 lễ hội
tôn giáo, tín ngưỡng được tổ chức. Hoạt động đào tạo, bồi dưỡng chức sắc, nhà
tu hành được duy trì, mở rộng. Nhiều chức sắc và nhà tu hành Việt Nam được cử
đi đào tạo ở Mỹ, Pháp, I-ta-lia, Ấn Ðộ, v.v. Đại diện chức sắc các tôn giáo Việt
Nam đã tham gia đối thoại tôn giáo, tín ngưỡng, giao lưu học hỏi, trao đổi giáo
lý và giáo luật tại các diễn đàn lớn, như: Diễn đàn hợp tác Á- Âu (ASEM), Hiệp
hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN),… và có quan hệ với Vatican kể từ năm 1989.
Trên cơ sở mối quan hệ này, Vatican đã cử Ðại diện không thường trú tại Việt
Nam từ năm 2011 và đến nay, đặc phái viên không thường trú của Vatican đã thực
hiện trên 20 chuyến thăm tới 60/63 tỉnh, thành phố của Việt Nam. Các tổ chức
nhân quyền và tôn giáo quốc tế đã nhiều lần đến thăm, làm việc, khảo sát thực tế
và thừa nhận việc đảm bảo quyền con người, trong đó có quyền tự do tôn giáo ở
Việt Nam đạt được nhiều tiến bộ. Đoàn Ủy ban Tự do tôn giáo quốc tế Hoa Kỳ, do
Phó Chủ tịch Ủy ban Michael Lewis Cromartie nhận xét: “Tự do tôn giáo, tín ngưỡng
ở Việt Nam đã được mở rộng và có nhiều tiến bộ, nhiều điểm đáng khích lệ…”.
Trong chuyến thăm và làm việc tại Việt Nam, Thượng nghị sĩ Mỹ Jim Webb cũng
đánh giá: “Cho dù vẫn còn những quan điểm cá nhân về một vài vụ việc cụ thể
liên quan đến tự do tôn giáo tại Việt Nam, nhưng không thể phủ nhận những tiến
bộ về tự do tôn giáo tại Việt Nam,…”. Đặc biệt, việc Việt Nam trúng cử với số
phiếu cao nhất vào Hội đồng Nhân quyền của Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2014 - 2016)
một lần nữa thể hiện sự ghi nhận, đánh giá cao của cộng đồng quốc tế đối với
chính sách, nỗ lực và thành tựu của Việt Nam trong đảm bảo các quyền con người,
trong đó có quyền tự do tôn giáo.
Trong những thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước,
dưới sự lãnh đạo của Đảng, thành tựu về đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo đã góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Lễ hội các tôn giáo và
các hoạt động tín ngưỡng dân gian trở thành ngày hội chung của toàn dân, lôi cuốn
hàng vạn người tham gia; coi đó không chỉ là nhu cầu tâm linh của các tín đồ,
mà còn là nhu cầu sinh hoạt văn hóa của toàn dân. Nhu cầu chính đáng ấy được
chính quyền các địa phương tạo điều kiện thuận lợi, làm cho tín đồ, chức sắc
các tôn giáo yên tâm, phấn khởi, ngày càng tin tưởng vào chính sách đối với tôn
giáo của Ðảng và Nhà nước. Những cơ sở thờ tự của các tôn giáo luôn được Nhà nước
quan tâm, cho phép tu bổ, sửa chữa và xây dựng mới. Nhiều cơ sở thờ tự của tín
ngưỡng, tôn giáo trở thành danh thắng nổi tiếng, đang thu hút khách du lịch
trong và ngoài nước đến chiêm ngưỡng. Phật giáo, trước năm 1975 chỉ có một trường
cao đẳng, nay có bốn Viện đại học Phật giáo. Số người đi tu nghiệp ở nước ngoài
tăng. Công giáo mở thêm các đại chủng viện để đào tạo linh mục. Số linh mục,
giám mục tấn phong ngày một tăng. Sinh hoạt của Công giáo sống động từ giáo họ,
giáo xứ đến giáo phận,... làm cho bà con giáo dân phấn khởi. Các tôn giáo khác,
tùy theo hình thức đào tạo truyền thống của mình, cũng được Nhà nước chấp thuận
mở các lớp đào tạo chức sắc. Ngoài ra, Nhà nước còn cho phép nhiều người đi tu
nghiệp, học tập và thăm viếng ở nước ngoài, trong đó có nhiều người đạt học vị
tiến sĩ, thạc sĩ. Sau khi Nhà xuất bản Tôn giáo được thành lập, đã có hàng trăm
đầu sách của tôn giáo được xuất bản. Quan hệ đối ngoại giữa các cá nhân và các
tổ chức tôn giáo cũng được mở rộng.
Ở Việt Nam, tín đồ và chức sắc các tôn giáo đã và đang
yên tâm hành đạo và tin tưởng ở chính sách đối với tín ngưỡng, tôn giáo của Ðảng,
Nhà nước ta. Họ gắn bó với quốc gia, dân tộc theo đường hướng: “Ðạo pháp, dân tộc
và chủ nghĩa xã hội”, thực hiện “sống phúc âm giữa lòng dân tộc”, “nước vinh, đạo
sáng”, với tấm lòng “kính Chúa yêu nước”, vừa hoàn thành trách nhiệm, nghĩa vụ
của công dân đối với Tổ quốc, vừa làm tròn bổn phận của một tín đồ đối với tôn
giáo. Hàng chục triệu tín đồ các tôn giáo khác nhau đã, đang và tiếp tục cùng
nhau và cùng toàn dân tìm thấy sự tương đồng, mẫu số chung ở mục tiêu phấn đấu
cho: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Những chủ trương, chính
sách và thành công trong việc thực hiện chính sách đối với tín ngưỡng, tôn giáo
ở Việt Nam trong những năm qua là lớn lao, không thể phủ nhận. Thực tiễn đã trả
lời cho câu hỏi, nếu Việt Nam hạn chế tôn giáo, vi phạm tự do tín ngưỡng, tôn
giáo thì các tổ chức tôn giáo có thể xác lập được vị trí, phát triển ổn định và
các tôn giáo ở Việt Nam có thể hội nhập toàn cầu như hiện nay hay không?
Đoàn kết tôn giáo đã góp phần tăng cường khối đại đoàn
kết toàn dân tộc. Ðoàn kết tôn giáo, tự do tín ngưỡng là quan điểm cơ bản và
cũng là nội dung chủ yếu của chính sách đối với tôn giáo của Ðảng và Nhà nước
ta. Chỉ một ngày sau khi đọc Tuyên ngôn Ðộc lập ở Quảng trường Ba Ðình (ngày
02-9-1945), trong buổi chủ tọa phiên họp đầu tiên của Chính phủ mới thành lập,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị Chính phủ tuyên bố “tín ngưỡng tự do, lương
giáo đoàn kết”. Từ đó đến nay, quan điểm ấy của Người đã trở thành định hướng
chung cho việc hoạch định và thực thi chính sách đối với tôn giáo của Ðảng và
Nhà nước Việt Nam và trở thành truyền thống tốt đẹp, di sản quý báu của dân tộc
mà mọi người có trách nhiệm giữ gìn và phát huy. Trong tiến trình lãnh đạo cách
mạng, Ðảng và Nhà nước ta luôn coi công tác tôn giáo là vấn đề có ý nghĩa chiến
lược. Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị, thông báo,... về
tôn giáo và công tác tôn giáo. Trong đó, xác định phương hướng và mục đích cơ bản
của hoạt động tôn giáo và công tác tôn giáo là nhằm tăng cường đoàn kết đồng
bào các tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh tổng hợp
của toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh. Kế thừa tư tưởng của Bác Hồ, đoàn kết tôn giáo
luôn được Ðảng ta quan tâm đúng mức, theo tinh thần “đoàn kết đồng bào theo tôn
giáo và đồng bào không theo tôn giáo”, với mục tiêu là củng cố và tăng cường khối
đại đoàn kết toàn dân tộc. Ðã là người dân đất Việt với niềm tự hào “con rồng
cháu tiên”, dù có đạo hay không có đạo; dù ở trong nước hay ở ngoài nước, ai
cũng đều mong đất nước Việt Nam cường thịnh. Ðó là mẫu số chung, là sự tương đồng
để đoàn kết mọi người mang dòng máu Lạc - Việt.
Không thể đánh lận giữa tự do tôn giáo và hành vi phạm
tội. Đi đôi với tôn trọng, đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công
dân, pháp luật của Việt Nam cũng nghiêm cấm và ngăn chặn mọi hành vi lợi dụng
tôn giáo để phá hoại độc lập và đoàn kết dân tộc, chống phá chủ nghĩa xã hội,
ngăn cản các tín đồ thực hiện nghĩa vụ công dân; đấu tranh và xử lý nghiêm đối
với mọi hành động lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo làm tổn hại đến lợi ích của quốc
gia, dân tộc và nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: “Chủ động phòng ngừa,
kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để mê hoặc,
chia rẽ, phá hoại khối đoàn kết dân tộc, v.v.”. Cũng như mọi quốc gia trên thế
giới, Nhà nước Việt Nam không cho phép bất kỳ tôn giáo nào được phép đứng ngoài
luật pháp, đứng ngoài dân tộc, đứng trên lợi ích quốc gia. Một yêu cầu khách
quan đặt ra trong đời sống tôn giáo ở Việt Nam là dù nội sinh hay ngoại sinh,
các tôn giáo muốn phát triển đều phải hòa đồng với dòng chảy văn hóa của dân tộc
và phải chịu sự quản lý của Nhà nước. Khi xem xét, giải quyết các vấn đề có
liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo, một trong những yêu cầu cơ bản mà Nhà nước
Việt Nam đặt ra là trong sáng, vô tư, không có sự phân biệt hay đối xử thiên vị
giữa các tôn giáo. Thực tế ở Việt Nam không có hiện tượng chống tín ngưỡng, tôn
giáo, mà chỉ chống những kẻ lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động trái
pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, gây rối trật
tự công cộng, xâm phạm an ninh quốc gia. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo không
phải là quyền vô giới hạn, vì vượt qua phạm vi nào đó sẽ lại vi phạm vào quyền
chính đáng của những người khác. Tự do theo nghĩa chân chính là tự do của người
này, cộng đồng này không vi phạm đến tự do của người khác và cộng đồng khác. Chẳng
có quốc gia nào mà cá nhân và tổ chức tôn giáo được hoạt động ngoài vòng pháp
luật của quốc gia đó.
Tuy nhiên, một số nước phương Tây đã thông qua nhiều
cái gọi là nghị quyết, dự luật về tự do tôn giáo, dân chủ, nhân quyền không phản
ánh thực tế đời sống tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam. Hằng năm, Ủy ban Tự do
tôn giáo quốc tế Hoa Kỳ đều công bố Báo cáo tình hình tự do tôn giáo, với nhiều
nội dung thiếu khách quan, thậm chí vu cáo, xuyên tạc tình hình tự do tôn giáo ở
Việt Nam. Họ cho rằng, Việt Nam vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của
người dân; đòi trả tự do cho những đối tượng là chức sắc tôn giáo vi phạm pháp
luật; đòi trả lại đất đai cho các tôn giáo mà chính quyền đã quốc hữu hóa, v.v.
Họ thường cho rằng, Việt Nam kiểm soát hoạt động tôn giáo bằng luật và giám sát
hành chính, hạn chế nghiêm ngặt hoạt động tôn giáo độc lập và đàn áp các cá
nhân và nhóm tôn giáo. Không chỉ thế, họ còn hỗ trợ cho các tổ chức phản động
người Việt ở nước ngoài, như: tổ chức khủng bố “Việt Tân”, “Đảng Vì dân”, “Ủy
ban tự do tôn giáo cho Việt Nam”, các phần tử cơ hội chính trị, bất mãn, chống
đối, linh mục cực đoan quá khích,… nhằm chống Đảng, Nhà nước ta. Chúng ra sức
kích động chức sắc, tín đồ tôn giáo trong nước chống đối, gửi “thỉnh nguyện
thư” lên các tổ chức “dân chủ”, “nhân quyền” quốc tế đề nghị can thiệp, đòi Nhà
nước Việt Nam trả tự do cho số đối tượng vi phạm pháp luật bị chính quyền xử lý
mà họ gọi là “tù nhân lương tâm”. Cá biệt, một số đối tượng là chức sắc cực
đoan trong các tôn giáo gắn vấn đề tôn giáo với dân chủ, nhân quyền, tăng cường
câu kết với các đối tượng phản động, cơ hội chính trị,… để tuyên truyền, cổ súy
tư tưởng đa nguyên, đa đảng, thực hiện cái gọi là “xã hội dân sự”, nhằm phủ nhận
vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và đòi tư hữu hóa đất đai; kích động
giáo dân tụ tập, khiếu kiện đông người, chống đối chính quyền, gây phức tạp an
ninh, trật tự, an toàn xã hội, v.v. Đó là những hành động vi phạm nhân quyền trắng
trợn đối với một quốc gia có chủ quyền.
Trong khi đó, ai cũng biết, ngay tại nước Mỹ, luật
pháp các bang cũng quy định rất rõ hành vi chống chính quyền và chế tài xử phạt
tương ứng. Đặc biệt, các tòa án ở Mỹ cũng rất nghiêm khắc đối với các hành vi
chống chính quyền. Bất kể cá nhân nào có hành vi danh xưng tôn giáo để tập hợp
lực lượng, chống nước Mỹ đều bị cơ quan bảo vệ pháp luật ở các bang bắt, xử lý.
Vậy thì hà cớ gì, những hành vi lợi dụng tự do tôn giáo để vi phạm pháp luật,
chống chính quyền của một số đối tượng ở Việt Nam, khi bị cơ quan tiến hành tố
tụng bắt, xử lý, lại bị đánh lận thành "đàn áp tôn giáo"? Trong nhiều
lần làm việc với cá nhân, tổ chức có trách nhiệm nước ngoài, trong đó có Bộ Ngoại
giao Mỹ, Việt Nam đã đề nghị cần có cách nhìn đầy đủ, khách quan, tôn trọng sự
thật tình hình tôn giáo ở Việt Nam. Nếu như ngay tại nước Mỹ, việc họ tiếp cận
thông tin có những sai lệch, thì Việt Nam đã rất thiện chí, tạo điều kiện để việc
tìm hiểu thực tế tôn giáo đảm bảo khách quan. Việc đánh giá, theo đó, cần tuân
thủ nguyên tắc và thiện chí này.
Những điều trên cho thấy, không thể phủ nhận tự do tín
ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam. Thường xuyên nêu cao cảnh giác, nhận diện, đấu
tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề
tôn giáo để chống đối chế độ là trách nhiệm của mỗi người dân Việt Nam.
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét