Home » thoisu
Thứ Hai, 25 tháng 12, 2017
Việt Nam bảo vệ quyền tự do tôn giáo
QĐND Online - Trong quá trình lãnh đạo xây dựng xã hội
ở Việt Nam, Đảng ta luôn xác định: “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của
một bộ phận nhân dân. Đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây
dựng xã hội mới”.
Quan điểm này của Đảng đã được cụ thể hóa thành các
quy định của hiến pháp và pháp luật, đồng thời được triển khai một các thực sự
trên thực tế, góp phần đảm bảo và thúc đẩy quyền con người, củng cố khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, tạo nguồn lực tinh thần và vật chất thúc đẩy xã hội phát
triển.
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong Hiến pháp và
pháp luật Việt Nam
Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, trong
phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ (9-1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã nhấn mạnh chính sách "tín ngưỡng tự do và Lương, Giáo đoàn kết".
Tư tưởng đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh được Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục thực
hiện trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng. Đặc biệt, chính sách tôn trọng và
bảo vệ quyền tự do thờ cúng và thực hành tín ngưỡng, tôn giáo đã được thể hiện
xuyên suốt trong tất cả các bản Hiến pháp Việt Nam qua các thời kỳ.
Năm 1946, trong bản Hiến pháp đầu tiên Nhà nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa đã khẳng định: “Tất cả quyền binh trong nước là của toàn
thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái, trai, giàu nghèo, giai cấp,
tôn giáo”; hay: “Công dân Việt Nam có quyền tự do tín ngưỡng”.
Đến bản Hiến pháp năm 1959, quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo tiếp tục được tái khẳng định và mở rộng hơn, công dân không chỉ có quyền
“theo tôn giáo” mà còn có quyền “không theo một tôn giáo nào”. “Công dân nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một
tôn giáo nào” (Điều 26).
Kế thừa và phát triển Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp
năm 1959, Hiến pháp năm 1980 ngoài việc ghi nhận quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo, còn quy định nội dung phòng ngừa việc lợi dụng tôn giáo để làm những điều
trái pháp luật, chống phá cách mạng…. “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, theo
hoặc không theo một tôn giáo nào; không ai được lợi dụng tôn giáo để làm trái
pháp luật và chính sách của Nhà nước” (Điều 68).
Bước vào thời kỳ đổi mới, trước những biến đổi nhanh
chóng của tình hình và yêu cầu xây dựng, phát triển đất nước, quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo của người dân vẫn tiếp tục được khẳng định. Điều 70, Hiến pháp
năm 1992 ghi rõ: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không
theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ
tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ. Không ai được xâm phạm tự
do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật
và chính sách của Nhà nước”.
Ngày 28-11-2013, Quốc hội đã thông qua Hiến pháp 2013,
hiến định một cách toàn diện hơn các quyền chính trị, dân sự của người dân;
trong đó quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được thể hiện khá toàn diện và đầy đủ,
đảm bảo dân chủ, tôn trọng và tạo điều kiện tốt nhất cho mọi người được thực
hành tín ngưỡng và tôn giáo của mình. Điều 24 Hiến pháp 2013 nêu rõ: "Mọi
người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo
nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo
hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật”.
Nhằm cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp và thể chế
hóa chủ trương, chính sách của Nhà nước về tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo, phù hợp với với các văn bản pháp lý quốc tế về quyền con người
mà Việt Nam đã tham gia, hệ thống các văn bản pháp luật, pháp lệnh, chỉ thị về
tôn giáo đã được chú trọng xây dựng và hoàn thiện. Các bộ luật như: Luật Dân sự,
Luật Tố tụng Hình sự, Luật Đất đai, Luật Giáo dục... đều có các điều khoản quy
định nguyên tắc không phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Điều
164 Bộ luật Hình sự (sửa đổi) quy định về tội xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo của công dân và người vi phạm có thể bị phạt tù từ 3 tháng đến một
năm.
Đặc biệt, ngày 18-11-2016, Quốc hội đã thông qua
Luật Tín ngưỡng, tôn giáo, trong đó quy định rõ: Mọi người có quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Mỗi người có quyền
bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo; thực hành lễ nghi tín ngưỡng, tôn giáo;
tham gia lễ hội; học tập và thực hành giáo lý, giáo luật tôn giáo.
Thực tiễn sinh động trong hoạt động tín ngưỡng, tôn
giáo ở Việt Nam
Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo và các loại hình
tín ngưỡng khác nhau, nhiều tôn giáo lớn du nhập từ hàng nghìn năm trước như Phật
giáo, Công giáo, Tin lành, Hồi giáo… và những tôn giáo hình thành trong nước
như Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo, Tứ Ân, Hiếu Nghĩa… Những quan điểm, chủ trương,
chính sách tôn trọng và bảo đảm tự do tín ngưỡng, tôn giáo không chỉ được khẳng
định ở hiến pháp và pháp luật hay trong các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng mà còn
thể hiện cụ thể trong thực tiễn đời sống xã hội.
Theo ước tính có khoảng 95% dân số Việt Nam có đời sống
tín ngưỡng, tôn giáo; trong đó có trên 24 triệu tín đồ của các tôn giáo khác
nhau (chiếm khoảng 27% dân số), thuộc 38 tổ chức tôn giáo. Cả nước có gần
53.000 chức sắc, 133.700 chức việc tôn giáo và khoảng 27.900 cơ sở thờ tự.
Các ngày lễ tôn giáo lớn như Lễ Giáng sinh của đạo Công giáo, Lễ Phật đản của
Phật giáo… đều được tổ chức trọng thể theo các nghi lễ tôn giáo. Hằng năm có
khoảng 8.500 lễ hội tôn giáo hoặc tín ngưỡng cấp quốc gia và địa phương được tổ
chức.
Các tổ chức tôn giáo đã đăng ký được pháp luật bảo hộ,
được tự do hoạt động tôn giáo, mở trường đào tạo chức sắc, xuất bản kinh sách,
sửa chữa và xây dựng cơ sở thờ tự theo quy định của pháp luật. Đến nay, trên cả
nước, Phật giáo có khoảng 17.000 ngôi chùa, tịnh xá, tịnh thất, niệm Phật đường;
Công giáo có 7.445 cơ sở thờ tự; Tin lành có gần 500 nhà thờ, nhà nguyện; Cao
Đài có 1.281 thánh thất; Phật giáo Hòa Hảo có 43 ngôi chùa được công nhận; Hồi
giáo có 89 thánh đường… Hiện Phật giáo có bốn học viện Phật giáo, một trường
Cao đẳng Phật học và 32 trường Trung cấp Phật học; Giáo hội Công giáo có một Học
viện Công giáo, bảy Đại chủng viện và một cơ sở II Đại chủng viện Thánh Giuse
tại Hà Nội; Tin lành có một Viện Thánh kinh thần học và một trường
Thánh kinh thần học.
Hầu hết các tổ chức tôn giáo đã xuất bản báo, tạp chí,
bản tin. Theo thống kê từ năm 2006 đến nay, Nhà Xuất bản Tôn giáo đã cấp phép
xuất bản 8.683 xuất bản phẩm, trong đó có 4.725 đầu sách với 14.535.464 bản in.
Trung bình mỗi năm có hàng nghìn ấn phẩm liên quan đến tôn giáo được cấp
phép xuất bản, bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau như Anh, Pháp và tiếng dân tộc
Khơ-me, Ê-đê, Gia-rai, Ba-na….
Với quan điểm “các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng
và giúp nhau phát triển”, những năm qua,
Nhà nước Việt Nam tôn trọng và bảo đảm quyền tự do và bình đẳng về
tín ngưỡng, tôn giáo của các dân tộc thiểu số. Bên cạnh việc tạo điều kiện cho
người dân tộc Chăm theo Hồi giáo và đạo Bà-la-môn thành lập các Ban đại diện cộng
đồng để hỗ trợ các sinh hoạt tôn giáo. Nhà nước hỗ trợ in ấn Kinh thánh
song ngữ tiếng Việt và các tiếng của dân tộc thiểu số; đã xuất bản
trên 30.000 cuốn Kinh thánh bằng tiếng Ba-na, Êđê, Gia-rai; cho phép in
và nhập kinh sách Phật giáo Nam Tông Khơ-me; chuẩn bị xuất bản Kinh
Coran song ngữ Việt Nam – Ả rập...
Hoạt động quốc tế của các tôn giáo tại Việt Nam cũng
ngày càng được mở rộng. Tòa thánh Va-ti-căng đã bổ nhiệm Đặc phái viên không
thường trú tại Việt Nam. Hàng năm có hàng trăm lượt chức sắc tôn giáo Việt Nam
tham dự các hoạt động tôn giáo ở nước ngoài và hàng ngàn lượt cá nhân tôn giáo
nước ngoài nhập cảnh vào Việt Nam giảng đạo và tham gia các hoạt động, sự kiện
tôn giáo. Trong đó, có nhiều sự kiện quan trọng do Việt Nam đăng cai tổ chức
thành công, được dư luận trong nước, quốc tế và tín đồ nhiều nước đánh giá cao
như: Đại lễ Phật đản (VESAK) Liên hợp quốc được tổ chức tại Hà Nội năm 2008 thu
hút 1.500 đại biểu đến từ 74 quốc gia và vùng lãnh thổ và tại Ninh Bình năm
2014 với sự tham dự của hơn 1.000 chức sắc, tín đồ đến từ 95 quốc gia và vùng
lãnh thổ; Hội nghị Ni giới thế giới năm 2009; Năm Thánh 2011 của Giáo hội Công
giáo; Kỷ niệm 100 năm đạo Tin Lành; Hội nghị Liên Hội đồng Giám mục Á Châu năm
2012…
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét