Home » thoisu
Chủ Nhật, 23 tháng 12, 2018
Chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do, rộng mở và vấn đề đặt ra đối với ASEAN
Sau hơn một năm Mỹ công bố khái niệm “Ấn Độ Dương -
Thái Bình Dương tự do và rộng mở”, đến nay, khái niệm này đã trở thành Chiến lược
tương đối đầy đủ. Việc triển khai thực hiện Chiến lược tạo ra nhiều cơ hội,
nhưng cũng đặt ra không ít thách thức đối với quốc phòng, an ninh khu vực, nhất
là các quốc gia khu vực Đông Nam Á.
Khái quát vài nét về Chiến lược
Khác với các chiến lược trước đây của Mỹ, chiến lược “Ấn
Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và rộng mở” được ban hành mà chưa có nội hàm cụ
thể ngay từ đầu. Vì thế, theo tuyên bố gần đây của Mỹ, mặc dù Chiến lược đang
triển khai, nhưng vẫn trong quá trình bổ sung, hoàn thiện và tiếp tục mở rộng
ra các lĩnh vực kinh tế, năng lượng, hạ tầng cơ sở, v.v. Theo Chiến lược, Hoa Kỳ
coi khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương là địa bàn chiến lược quan trọng để tập
trung đầu tư phát triển an ninh, kinh tế và quyết tâm thực hiện cam kết đối với
các đồng minh, đối tác trong khu vực; hướng tới xây dựng một Ấn Độ Dương - Thái
Bình Dương an ninh, an toàn, tự do hàng hải, hàng không và phát triển thịnh vượng,
dựa trên nguyên tắc dân chủ, tự do, pháp quyền, kinh tế thị trường, cởi mở,
minh bạch, bình đẳng với tất cả các quốc gia.
Về chính trị, Mỹ nhấn mạnh hai vấn đề: “tự do” và “rộng
mở”. Theo đó, Oa-sinh-tơn ủng hộ tự do, độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ của mọi quốc gia, bất kể nước đó là lớn hay nhỏ. Người dân của tất
cả các quốc gia trong khu vực được quyền tự do hơn, tăng cường các quyền cơ bản
của công dân, tôn trọng đề cao các giá trị dân chủ, v.v. Các quốc gia được quyền
tiếp cận không hạn chế đối với các vùng biển, không gian quốc tế mở, giải quyết
các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình và không sử dụng sức mạnh cưỡng bức,
chèn ép các nước láng giềng, tuân thủ luật pháp và các chuẩn mực quốc tế. Mỹ khẳng
định sẽ không áp đặt, không tìm cách bá chủ khu vực và cũng không để cho bất kỳ
quốc gia nào bá chủ ở khu vực và sẽ nhất quán trong lời nói cũng như hành động.
Về kinh tế, Mỹ sẽ cạnh tranh công bằng với tất cả các
bên; theo đuổi tự do thương mại, bình đẳng và có đi có lại; thúc đẩy hậu cần và
khuyến khích các quốc gia trong khu vực xây dựng môi trường đầu tư rộng mở, thông
thoáng và hướng tới kinh tế thị trường; không theo đuổi lợi ích kinh tế có hại
cho các nước khác. Đồng thời, phản đối các nước thực hiện chính sách kinh tế bẫy
nợ, đẩy các quốc gia khác vào tình trạng nợ nần hoặc trục lợi về kinh tế, v.v.
Về các đối tác và cơ chế khu vực, Mỹ sẽ tiếp tục tham
gia sâu, rộng hơn vào các cơ chế hiện hành ở khu vực. Trong đó, Hoa Kỳ ủng hộ
và sẽ trợ giúp để ASEAN trở thành trung tâm trong chiến lược Ấn Độ Dương - Thái
Bình Dương; tiếp tục tham gia các cơ chế tại khu vực, như: Diễn đàn khu vực
ASEAN (ARF), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN mở rộng (ADMM+), Hội
nghị cấp cao Đông Á (EAS), Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương
(APEC) và các cơ chế hợp tác ba, bốn bên với các đối tác khác. Ở Đông Bắc Á, Hoa
Kỳ đang tập trung nâng cấp, hiện đại hóa các quan hệ liên minh với Nhật Bản và
Hàn Quốc để đối phó với các thách thức trong thế kỷ XXI. Đối với Đông Nam Á, Mỹ
sẽ khôi phục quan hệ đồng minh với Phi-líp-pin và Thái Lan, thúc đẩy quan hệ đối
tác bền vững với Xin-ga-po và sẽ phát triển quan hệ đối tác mới với các nước
then chốt trong khu vực. Ở châu Đại Dương, Mỹ có Ô-xtrây-li-a là một trong những
đồng minh lâu đời nhất và sẽ khôi phục quan hệ đối tác quốc phòng với Niu
Di-lân. Quân đội Mỹ cũng sẽ tăng cường can dự, kết nối với các đồng minh có lực
lượng đang đồn trú ở Thái Bình Dương, như: Anh, Pháp và Ca-na-đa để thúc đẩy
các lợi ích tương đồng. Đối với Nam Á, Hoa Kỳ coi mối quan hệ với Ấn Độ là đối
tác tự nhiên giữa hai nền dân chủ lớn nhất thế giới, dựa trên sự tương đồng về
lợi ích chiến lược, các giá trị chung, tôn trọng lẫn nhau và tôn trọng một trật
tự quốc tế dựa trên luật lệ. Với Trung Quốc, Mỹ chỉ trích mạnh mẽ việc Trung Quốc
quân sự hóa các đảo nhân tạo ở Biển Đông, bao gồm việc triển khai tên lửa đất đối
hải, đất đối không, các hệ thống ra-đa gây nhiễu và máy bay ném bom cỡ lớn ở
Hoàng Sa; cảnh báo Trung Quốc sẽ phải gánh chịu các hậu quả do việc quân sự hóa
Biển Đông.
Trong thực tiễn, đầu tháng 7-2018, Hoa Kỳ bắt đầu triển
khai các nội hàm của Chiến lược; trọng tâm là áp đặt nhiều đợt thuế trị giá
hàng trăm tỷ USD lên hàng hóa của Trung Quốc xuất khẩu vào nước này và chính thức
khởi động cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung. Tại Diễn đàn ARF tổ chức ở
Xin-ga-po đầu tháng 8-2018, Mỹ đã công bố các gói trợ giúp ASEAN, trị giá lần
lượt là 300 triệu USD và 113 triệu USD để các nước này nâng cao năng lực bảo đảm
an ninh và phát triển kinh tế. Cùng với đó, Oa-sinh-tơn đã đổi tên “Bộ Chỉ huy
Thái Bình Dương” thành “Bộ Tư lệnh Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương” và tăng cường
nhiều tàu chiến, máy bay, phương tiện quân sự hiện đại tại khu vực. Đặc biệt, dự
kiến từ sau năm 2023, Mỹ sẽ đồng thời triển khai 02 tàu sân bay trực chiến tại
biển Hoa Đông và Biển Đông.
Ba nước còn lại trong “bộ tứ”, gồm: Nhật Bản, Ấn Độ và
Ô-xtrây-li-a đều chia sẻ nhiều quan điểm tương đồng về mục tiêu, nguyên tắc và
nội hàm của chiến lược “Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và rộng mở” với Mỹ.
Các nước đều mong muốn duy trì trật tự khu vực hiện hành - khu vực hòa bình, ổn
định, tự do, mở cửa cho tất cả các bên; tuy nhiên, mỗi quốc gia lại có những kế
hoạch, tính toán và cách tiếp cận Chiến lược khác nhau. Về phía mình,
Oa-sinh-tơn muốn thông qua Chiến lược để tạo dựng một tuyến phòng thủ từ xa, nhằm
đẩy các nguy cơ, thách thức đối với họ ra càng xa lục địa Mỹ càng tốt. Đồng thời,
muốn Nhật Bản phát huy vai trò chủ động về an ninh khu vực, tự mình gánh vác
nhiều trách nhiệm và phối hợp với Mỹ tốt hơn. Nhật Bản cũng muốn thông qua Chiến
lược để nâng cao vai trò, vị thế ở khu vực và lôi kéo, duy trì sự cam kết của Mỹ
trong việc bảo vệ đồng minh. Trong khi đó, Ấn Độ chỉ coi Ấn Độ Dương - Thái Bình
Dương là một “khu vực tự nhiên và bao trùm” có nhiều mối liên hệ với nước này
trong lịch sử, chứ chưa có một chiến lược hoàn chỉnh trong Chiến lược chung của
Mỹ mà chủ yếu tập trung vào một số đối tác chính ở Đông Nam Á, nhằm tăng cường
hợp tác quốc phòng, cung cấp hậu cần cảng biển, v.v. Bên cạnh đó, Niu-đê-li còn
quan tâm nhiều vấn đề khác, như: Pa-ki-xtan và Nam Á, trong khi nguồn lực còn
nhiều hạn chế. Đối với Ô-xtrây-li-a, mặc dù chia sẻ với Mỹ, Nhật về nhiều mục
tiêu, nguyên tắc và nội hàm của Chiến lược, nhưng sự quan tâm của nước này đối
với khu vực Ấn Độ Dương mới bắt đầu trong thời gian gần đây, nên chưa thể tham
gia với một chiến lược đầy đủ. Hơn nữa, do nguồn lực có hạn và không muốn làm
“mất lòng” Trung Quốc nên nước này đang có cách tiếp cận rất thận trọng.
Một số vấn đề đặt ra đối với ASEAN
Các chuyên gia đều cho rằng, ASEAN có vị trí đặc biệt
quan trọng trong chiến lược “Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và rộng mở”
khi xét tới vị trí địa lý và ảnh hưởng của mình đối với trật tự khu vực. Chiến
lược mở ra nhiều cơ hội cho các nước ASEAN và điều này được thể hiện ở một số
phương diện:
Thứ nhất, tuyệt đại đa số mục tiêu, nguyên tắc, nội
hàm của Chiến lược không có gì mâu thuẫn với quan điểm, lập trường cũng như lợi
ích của ASEAN, thậm chí có nhiều sự tương đồng trong nội hàm Chiến lược.
Thứ hai, về phát triển, ASEAN đang có nhu cầu to lớn về
việc xây dựng hạ tầng cơ sở chất lượng cao, về đảm bảo an ninh năng lượng, an
ninh mạng, thúc đẩy kết nối kinh tế, thương mại, xúc tiến đầu tư. Việc Mỹ, Nhật
và các đối tác sẵn sàng hợp tác, chia sẻ là cơ hội cho khu vực này.
Thứ ba, về xây dựng năng lực, ASEAN rất mong muốn các
đối tác giúp đỡ việc xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao, cung cấp trang thiết
bị trong mọi lĩnh vực, nhất là việc đào tạo, huấn luyện cán bộ quân sự, an
ninh; sẵn sàng phối hợp với các nước để cùng nhau đóng góp tích cực cho hòa
bình, ổn định ở khu vực và thế giới.
Thứ tư, ASEAN luôn mong muốn châu Á - Thái Bình Dương
và cả Ấn Độ Dương là khu vực hòa bình, ổn định, tự do và mở cửa cho tất cả các
bên cùng tham gia, dựa trên luật lệ và các chuẩn mực quốc tế. Trong đó, có Công
ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS) cũng như duy trì vai trò
trung tâm của ASEAN và đảm bảo hiệu quả của các cơ chế do ASEAN dẫn dắt, như:
ASEAN+1 (giữa ASEAN với từng nước đối tác đối thoại, gồm: Ô-xtrây-li-a, Trung
Quốc, Ấn Ðộ, Nhật Bản, Niu Di-lân, Nga, Hàn Quốc và Mỹ), ASEAN+3 (giữa ASEAN với
Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc), EAS, ADMM+, v.v. Do vậy, có thể khẳng định,
khi Mỹ và các nước đồng minh triển khai Chiến lược, ASEAN sẽ có nhiều thuận lợi,
thúc đẩy sự phát triển của khu vực.
Tuy nhiên, Chiến lược cũng đặt ra không ít thách thức
đối với các nước ASEAN. Trước hết, việc thay đổi trọng tâm từ châu Á - Thái
Bình Dương sang Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương có thể gây nên sự suy giảm vai trò
của ASEAN trong các vấn đề của khu vực, khi mà việc hồi sinh cơ chế tham vấn bốn
bên (gồm Ô-xtrây-li-a, Ấn Độ, Nhật Bản, Mỹ) được coi là điểm cốt lõi trong Chiến
lược. Và khi tầm quan trọng của cơ chế trên được khẳng định rõ nét thì vai trò
trung tâm của ASEAN có thể sẽ bị mờ nhạt. Bên cạnh đó, ASEAN luôn phải cân bằng
quan hệ với các nước lớn bằng cách ủng hộ nguyên tắc bao trùm và trung lập (tối
đa hóa các đòn bẩy ngoại giao thông qua việc bảo vệ đặc quyền của khối), nguyên
tắc này sẽ không được đảm bảo nếu ASEAN được nhìn nhận là ủng hộ chiến lược “Ấn
Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và rộng mở”. Hơn nữa, ASEAN sẽ không muốn tham
gia một khối được thành lập bởi những nước đối lập nhau, nhất là việc phải chọn
phe. Nguy cơ phải chọn phe trong bối cảnh cạnh tranh Trung - Mỹ đang gia tăng
nhanh chóng, có thể sẽ phá vỡ nguyên tắc bao trùm và trung lập của ASEAN.
Thông thường, quá trình thúc đẩy hợp tác với các nước
lớn bao giờ cũng đi kèm với việc tập hợp lực lượng. Do đó, một mặt, ASEAN cần hết
sức tỉnh táo, tránh không trở thành “quân bài” bị kẹt giữa các nước lớn và phải
giải quyết bài toán lựa chọn bên này hay bên kia. Mặt khác, phải đề phòng, cảnh
giác với việc các nước lớn thỏa hiệp, bắt tay nhau chia sẻ lợi ích ngay trên
lưng các quốc gia ASEAN. Vì vậy, xử lý tốt và cân bằng quan hệ giữa các nước lớn
là điểm mấu chốt - chìa khóa để thúc đẩy hợp tác, tranh thủ các cơ hội to lớn
do chiến lược “Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và rộng mở” mang lại.
Như vậy, chiến lược “Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do
và rộng mở” của Mỹ và các nước đối tác đã, đang có tác động mạnh mẽ tới khu vực,
thế giới, trong đó có các nước ASEAN với cả thời cơ và thách thức đan xen. Điều
đó đòi hỏi các quốc gia Đông Nam Á cần hết sức tỉnh táo, chủ động theo dõi những
động thái tiếp theo của Mỹ, tổ chức tham vấn thường xuyên để có đối sách phù hợp.
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét