Home » biendao
Thứ Sáu, 8 tháng 2, 2019
Chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc và vấn đề Biển Đông (phần 3)
“Bách niên quốc sỉ” và chủ nghĩa dân
tộc hằn học
Theo TS. Andrew Chubb, sở dĩ Trung Quốc
có thể huy động dư luận để gây sức ép trong tranh chấp Biển Đông phần lớn là do
chủ nghĩa dân tộc về chủ quyền, lãnh thổ âm ỉ trong lòng xã hội Trung Quốc. Kết
quả khảo sát 1413 người dân thành thị Trung Quốc năm 2013 cho thấy 45.6% người
được khảo sát ủng hộ các hoạt động quân sự ở Biển Đông so với 41.7% trong trường
hợp Điếu Ngư. 83% đồng ý rằng duy trì nguyên trạng tại Biển Đông là sự tiếp diễn
của “thế kỷ bị sỉ nhục” (century of humiliation). 66% người được hỏi cho rằng
“định hướng dư luận để thể hiện sự bất bình với các quốc gia tranh chấp” là lựa
chọn chính sách đúng đắn.
Ở chiều ngược lại, cũng có thể lập luận
rằng dư luận nói trên có thể là kết quả của chính sách nuôi dưỡng chủ nghĩa dân
tộc có ý thức trong một thời gian. Trung Quốc tuyên truyền qua mọi kênh rằng
Trung Quốc có chủ quyền đối với toàn bộ Biển Đông, bất chấp những lập luận pháp
lý và cơ sở lịch sử phi lý của nước này. Truyền thông Trung Quốc liên tục tuyên
truyền nước này là nạn nhân, bên bị động trong tranh chấp tại Biển Đông (dù
trên thực tế Trung Quốc là nước gây hấn chính). Đáng chú ý, dù có thể, nhưng
các cơ quan kiểm duyệt của Trung Quốc không xoá những đoạn bình luận trên mạng
buộc tội lãnh đạo nước này là “kẻ phản bội” (sellouts, traitors), không nỗ lực
để bảo vệ lợi ích quốc gia. Một số ý kiến thậm chí còn ví chính sách “yếu đuối”
của Trung Quốc tại Biển Đông với nạn tham nhũng hay sự tàn lụi của triều đình
nhà Thanh.
Từ góc độ lý thuyết, sự phẫn nộ của
quần chúng có khả năng tạo ra ba loại hiệu ứng răn đe mà các nhà hoạch định
Trung Quốc có thể tận dụng. Thứ nhất, dư luận có thể là một hình thức ngoại
giao cưỡng ép giúp một quốc gia gửi thông điệp đe dọa và không khoan nhượng qua
biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc. Nói cách khác, dư luận là phương tiện để gián
tiếp chuyển tín hiệu “đe doạ”, “cảnh báo” mà không tỏ thái độ hiếu chiến từ
kênh chính thức.
Thứ hai, dư luận có tác dụng thu hút
sự chú ý của đối phương, đảm bảo thông điệp được truyền tải mà không cần tín hiệu
rõ ràng (ambigious signaling). Cụ thể, Trung Quốc đưa ra thông điệp có mức độ
mơ hồ vừa phải để có thể phủ nhận vấn đề khi cần thiết. Tuy vậy, các dấu hiệu
này cũng đủ rõ ràng để thu hút sự chú ý của người nhận và để họ diễn giải thông
tin theo hướng Trung Quốc mong muốn. Thông tin mang tính thù địch, ồn ào và
bùng nổ cảm xúc trên quy mô lớn do tốc độ lan truyền của mạng xã hội ở Trung Quốc
rất phù hợp với chiến lược này.
Thứ ba, dư luận của quần chúng nhân
dân tạo hiệu ứng tâm lý nặng nề, khiến đối phương bị ám ảnh bởi các kịch bản xấu
dù chúng ít có khả năng xảy ra, qua đó điều chỉnh hành vi để tránh tổn hại. Nếu
các nước tin rằng chủ nghĩa dân tộc là thùng thuốc súng khiến các nhà lãnh đạo
Trung Quốc phải hành động kiên quyết, các nước khác sẽ chịu sức ép lớn hơn để
điều chỉnh hành vi theo hướng có lợi cho Trung Quốc, tránh chiến tranh. Tuy vậy,
bên cạnh hành vi đe doạ, biện pháp răn đe của Trung Quốc cũng cần “đảm bảo” sẽ
loại bỏ nguy cơ leo thang căng thẳng nếu bên còn lại tuân thủ hoàn toàn các yêu
cầu của Trung Quốc.
Tuy nhiên, thực tế trên Biển Đông và
Hoa Đông cho thấy, Trung Quốc sử dụng chủ nghĩa dân tộc khi xử lý khủng hoảng với
các nước mạnh hơn (Mỹ, Nhật), hoặc các nước là đồng minh của Mỹ. Có thể, chủ
nghĩa dân tộc góp phần tạo thêm sức ép để răn đe Mỹ can thiệp và các nước đồng
minh của Mỹ triển khai các biện pháp cứng rắn. Tuy nhiên, Trung Quốc hạn chế sử
dụng sức ép của chủ nghĩa dân tộc với các nước được cho là yếu hơn.
Một số suy nghĩ về việc sử dụng chủ
nghĩa dân tộc trong đối ngoại
Tính toán sử dụng chủ nghĩa dân tộc
trong chính sách đối ngoại mang lại tác động hai chiều, cả tích cực và tiêu cực,
hay còn được biết đến là chủ nghĩa dân tộc tốt đẹp và chủ nghĩa dân tộc xấu xí.
Chủ nghĩa dân tộc tốt đẹp là sự tự hào quốc gia và tâm lý thuộc về quốc gia đó
(national belonging) trên các lĩnh vực chính trị và sắc tộc – văn hóa, kết hợp
với lòng tin về bản sắc của quốc gia – dântộc mình. Theo đó, chủ nghĩa dân tộc
tốt đẹp được coi là chất keo gắn kết dân tộc và các lãnh đạo có thể sử dụng
tinh thần đoàn kết dân tộc để chèo lái đưa quốc gia vượt qua sự chèn ép, thách
thức từ bên ngoài. Ví dụ tiêu biểu là quá trình đấu tranh chống thực dân, giành
và bảo vệ độc lập dân tộc mang ý nghĩa tích cực và tiến bộ của các dân tộc bị
áp bức. Chủ nghĩa dân tộc loại này đôikhi được gọi là tinh thần dân tộc hay chủ
nghĩa yêu nước.
Tuy vậy, chủ nghĩa dân tộc sẽ trở nên
xấu xí nếu một quốc gia có tư tưởng cực đoan, tuyệt đối hóa giá trị dân tộc, tự
đặt ở vị trí cao nhất trong toàn bộ hệ thống giá trị, từ đó dẫn đến chỗ khoa
trương, bài ngoại, tự phụ, coi trọng bá quyền. Lịch sử đã chứng minh chủ nghĩa
dân tộc sẽ trở nên xấu xí, độc hại nếu không được cân bằng bởi một thế giới
quan rộng mở và một học thuyết đạo đức đề cao lòng trắc ẩn và tự kiềm chế. Các
nền dân chủ non trẻ hay những quốc gia trong giai đoạn chuyển đổi thường có
nguy cơ rơi vào chủ nghĩa dân tộc cực đoan cao hơn bởi tâm lý dân tộc có thể bị
thao túng để phục vụ các động cơ chính trị riêng.
Bởi chủ nghĩa dân tộc là con dao hai
lưỡi nên việc sử dụng công cụ này trong chính sách đối ngoại cần được cân nhắc
thận trọng. Dù chủ nghĩa dân tộc có được các nhà hoạch định chính sách huy động
hay không, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là nâng cao nhận thức của người dân, đặc
biệt là tầng lớp lao động về các vấn đề trong nước, vấn đề quốc tế và chính
sách đối ngoại theo hướng cân bằng và khách quan để tránh tâm lý đám đông, cảm
tính. Về lâu dài, chủ động hội nhập, tăng cường giao lưu, đề cao và tôn trọng sự
đa dạng văn hoá là cách thức bền vững để nuôi dưỡng chủ nghĩa dân tộc tốt đẹp.

Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét