Home » HD-8
Thứ Bảy, 10 tháng 8, 2019
Bãi Tư Chính, chủ quyền không thể “tranh cướp” của Việt Nam (phần 2)
Đứng trước những hành động xâm phạm chủ quyền Việt Nam của Trung Quốc, phía Việt Nam đã kiên quyết và kiên trì đấu tranh bảo vệ chủ quyền, đồng thời rất kiềm chế trong hành động. Việt Nam đã trước sau như một, nhiều lần khẳng định rằng, bãi Tư Chính là thuộc chủ quyền của Việt Nam. Bởi:
Thứ nhất, xét vị trí địa lý của bãi Tư Chính, vùng biển này gắn liền và là một phần của biển miền Trung Việt Nam, tạo thành một vùng nước ven bờ biển Việt Nam và nó chỉ cách bờ không quá 200 hải lý, trong khi cách đất liền Trung Quốc trên cả 600 hải lý. Căn cứ theo quy định của UNCLOS 1982, rõ ràng nó thuộc chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam. Còn Trung Quốc ở xa thế mà cứ nhận vơ vào là của mình thì chẳng phải “tranh cướp” là gì.
Thứ hai, lịch sử Việt Nam từ thế kỷ 17, 18 đến nay luôn xác định biển miền Trung, trong đó có bãi Tư Chính thuộc chủ quyền của Việt Nam và chính quyền các thời đại ở Việt Nam chưa bao giờ phủ nhận hoặc không thực thi chủ quyền của mình tại đây. Đặc biệt, nơi đây là nguồn sống và mưu sinh của bao thế hệ cư dân Việt Nam ven biển.
Thứ ba, do xác định bãi Tư Chính là chủ quyền của mình, nên Việt Nam đã triển khai nhiều giàn khoan hoạt động ở khu vực này, nhưng từ trước đến nay không hề có nước nào phản đối ngoại trừ Trung Quốc. Ngược lại, do không có căn cứ pháp lý rõ ràng, thiếu thuyết phục nên sau các lần gây căng thẳng với Việt Nam ở khu vực này, cuối cùng Trung Quốc cũng phải rút lui.
Thứ tư, căn cứ Điều 60 của UNCLOS 1982 quy định về các đảo nhân tạo, thiết bị và công trình trong vùng đặc quyền kinh tế và Điều 80 quy định về các đảo nhân tạo, thiết bị và công trình ở thềm lục địa, Việt Nam có đặc quyền tiến hành xây dựng, cho phép và quy định việc xây dựng, khai thác và sử dụng đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình dùng vào mục đích được trù định ở Điều 56 của UNCLOS 1982 hoặc các mục đích kinh tế khác trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của mình.
Thứ năm, Việt Nam không có ý định và không cố ý biến các bãi ngầm ở vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa phía nam, trong đó có bãi Tư Chính thành đảo nổi hay đảo nhân tạo và không gán ghép chúng vào quần đảo Trường Sa, đồng thời bác bỏ sự gán ghép này đến từ bất cứ ai.
Mặt khác, cũng phải lưu ý rằng, về mặt công pháp quốc tế có hai vấn đề đáng quan tâm:
Một là, khác với đảo, thực thể chìm ngập dưới biển không phải là đối tượng để các quốc gia tuyên bố chủ quyền một cách riêng rẽ, trừ khi họ chứng minh được chúng nằm trong vùng nước lịch sử hoặc nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của thực thể khác.
Hai là, thềm lục địa không phải là bộ phận của lãnh thổ quốc gia, nói cách khác, quốc gia ven biển không có chủ quyền đối với thềm lục địa. Theo Điều 77 UNCLOS 1982, quốc gia ven biển chỉ thực hiện các quyền thuộc chủ quyền về mặt thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên của mình. Việc quốc gia ven biển thực thi quyền chủ quyền không được gây thiệt hại đến hàng hải hay các quyền và các tự do khác của các quốc gia khác đã được UNCLOS thừa nhận. Theo Điều 79 UNCLOS 1982, các quốc gia khác có quyền lắp đặt dây cáp và ống dẫn ngầm ở thềm lục địa nhưng cần được sự thỏa thuận của quốc gia ven biển. Trong khi đó, Việt Nam đã và đang thực hiện chủ quyền và quyền chủ quyền trên thực tế của mình đối với vùng biển này. Thể hiện:
Về quản lý hành chính nhà nước, bãi Tư Chính thuộc phạm vi quản lý của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Về quản lý trên thực địa, từ năm 1989, Việt Nam đã lắp đặt các cấu trúc thép nổi trên mặt biển và cử lực lượng thuộc Hải quân nhân dân Việt Nam canh giữ, gọi là nhà giàn DK1. Ban đầu, các nhà giàn còn đơn giản và nhỏ, thiếu vững chắc. Về sau, mẫu nhà giàn được thiết kế lại, diện tích rộng rãi và vững chắc hơn, có kết cấu liên hoàn theo kiểu giàn khoan đứng chân trên biển. Hiện nay, có 3 nhà giàn đang hoạt động tại bãi Tư Chính, đó là:
Nhà giàn DK1/11, hoàn thành ngày 05/05/1994.
Nhà giàn DK1/12, hoàn thành ngày 08/08/1994.
Nhà giàn DK1/14, hoàn thành ngày 20/04/1995.
Ngoài ra, tại bãi Tư Chính còn có 2 ngọn hải đăng làm nhiệm vụ hướng dẫn tàu thuyền đi lại trên biển.
Như vậy có thể thấy rằng, Việt Nam có chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng biển ở Biển Đông được xác định theo đúng các quy định của UNCLOS 1982 mà Việt Nam và các nước xung quanh Biển Đông đều là thành viên. Do đó, mọi hoạt động của các nước khác trên các vùng biển Việt Nam phải tuân thủ các quy định có liên quan của UNCLOS 1982, tuân thủ pháp luật Việt Nam. Nếu không được phép của Việt Nam thì mọi hoạt động của nước ngoài đều vô giá trị, xâm phạm chủ quyền Việt Nam, vi phạm luật pháp quốc tế và UNCLOS 1982. Song, Việt Nam kiên trì giải quyết tranh chấp, bất đồng bằng biện pháp hòa bình, phù hợp luật pháp quốc tế và UNCLOS 1982 nhằm giữ gìn hòa bình, ổn định cho Biển Đông nói riêng, khu vực nói chung.

- Làm rõ tính chất pháp lý của khu vực Bãi Tư Chính
- 发掘中国的弱点
- Khai thác điểm yếu của Trung Quốc
- 解决东海主权争端–必须有个改换中国领导思维的妙方(第二期)
- Cần có “diệu pháp” cải hoán tư duy của lãnh đạo TQ trong giải quyết tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông (phần 2)
- 解决东海主权争端–必须有个改换中国领导思维的妙方(第一期)
- 越南海警提高国际合作效率
- Cảnh sát biển Việt Nam nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế
- 越南努力减少海洋塑料污染
- Việt Nam tăng cường quản lý giảm ô nhiễm rác thải nhựa đại dương
- 昏果岛的历史、自然条件与发展潜力
- Lịch sử, điều kiện tự nhiên và tiềm năng phát triển của đảo Cồn Cỏ
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét