Home » HD-8
Thứ Ba, 6 tháng 8, 2019
Trung Quốc đe dọa hòa bình, ổn định và hợp tác trong khu vực (phần 1)
Trong những ngày đầu tháng 7/2019, Trung Quốc đã đưa tàu khảo sát địa chất Hải Dương 8 vào hoạt động tại vùng biển gần bãi Tư Chính do Việt Nam kiểm soát, đi cùng tàu thăm dò này là một số tàu hải cảnh và tàu cá dân binh Trung Quốc làm nhiệm vụ bảo vệ. Hành động này cho thấy, Trung Quốc đã xâm phạm trắng trợn chủ quyền của Việt Nam, không nhất quán giữa lời nói và hành động mà họ vừa mới “đề nghị” với lãnh đạo cấp cao Việt Nam gần đây, không xứng với tư cách một “nước lớn có trách nhiệm” mà nước này từng tuyên bố. Có mấy điều cần nói rõ hơn với công luận trong ngoài nước và cả phía Trung Quốc xung quanh vấn đề này.
Trước hết, cần khẳng định rằng, Việt Nam có đủ căn cứ pháp lý quan trọng trên biển để thực thi các biện pháp phù hợp nhằm bảo vệ chủ quyền của mình. Trên cơ sở Hiến pháp Việt Nam, năm 2012, Quốc hội Việt Nam thông qua bộ luật biển Việt Nam làm căn cứ pháp lý quan trọng cho các hoạt động của Việt Nam trên biển. Bộ luật này còn được soạn thảo trên tinh thần của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS 1982, được gọi là hiến pháp trên biển của thế giới) mà Việt Nam, Trung Quốc và tất cả các nước xung quanh Biển Đông đều là thành viên.
Căn cứ vào hai văn bản pháp lý này, Việt Nam đã xác lập các quyền lợi và nghĩa vụ hợp pháp của mình tại Biển Đông, trong đó:
Nguyên tắc đất thống trị biển là nguyên tắc đầu tiên để xác lập các vùng biển với các chế định tương ứng của các quốc gia. Điều này có nghĩa là: (1) Các quốc gia ven biển có thể xác lập các vùng biển của mình hướng ra biển. (2) Các quốc gia sở hữu các thực thể xa bờ nổi trên mặt nước khi thuỷ triều lên (điển hình nhất là các đảo xa bờ) cũng có thể xác lập các vùng biển bao quanh chúng theo luật pháp quốc tế.
Nguyên tắc này có hệ quả quan trọng là khi càng hướng xa ra biển, quyền kiểm soát của các quốc gia sẽ càng bị hạn chế. Do đó, tuần tự theo hướng đi ra biển, các quốc gia sẽ có chủ quyền đối với vùng nội thuỷ và lãnh hải. Ở các vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, các quốc gia sẽ có quyền chủ quyền và quyền tài phán tương ứng với các đặc điểm khác nhau.
Từ những tuyên bố vào các năm 1977, 1982 và Luật biển 2012, Việt Nam đã thực hiện việc xác lập chủ quyền tại tất cả các vùng biển của mình trên Biển Đông cùng với việc thụ hưởng các quyền và nghĩa vụ tương ứng tại đây.
Thứ hai, về chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán. Đầu tiên, Việt Nam sẽ có chủ quyền hoàn toàn và tuyệt đối đối với nội thuỷ của mình. Nó tương tự với chủ quyền tuyệt đối trên đất liền. Ra đến lãnh hải, Việt Nam sẽ có chủ quyền hoàn toàn và đầy đủ. Điều này có nghĩa là Việt Nam sẽ có quyền đặt ra luật và thi hành các luật này cho tất cả các hoạt động ở cột nước, vùng trời và đáy biển trong lãnh hải. Tuy nhiên, các tàu thuyền nước ngoài sẽ có quyền đi lại vô hại (đi một cách nhanh chóng, liên tục và khẩn trương) trong lãnh hải. Đối với vùng tiếp giáp lãnh hải, Việt Nam sẽ có các quyền kiểm soát liên quan đến các vấn đề an ninh như hải quan, nhập cư và vệ sinh môi trường.
Trong vùng đặc quyền kinh tế, Việt Nam có quyền chủ quyền đối với các hoạt động khai thác kinh tế đối với tài nguyên thiên nhiên và các hoạt động khai thác năng lượng trong cột nước và đáy biển.
Quyền chủ quyền có thể hiểu là quyền độc quyền khai thác và sử dụng của vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Các quốc gia khác chỉ có thể tiến hành các hoạt động kể trên nếu được Chính phủ Việt Nam cho phép dưới hình thức phổ biến nhất là các hiệp ước với các điều khoản quy định chặt chẽ về việc khai thác này.
Ngoài ra, các hoạt động khác liên quan đến việc xây dựng đảo nhân tạo, các cấu trúc phục vụ cho hoạt động đi biển, nghiên cứu khoa học hay bảo vệ môi trường trong khu vực đặc quyền kinh tế đều nằm trong quyền tài phán của Việt Nam. Điều này có nghĩa Việt Nam có quyền đưa ra các quy định liên quan đến các lĩnh vực trên và lực lượng hành pháp của Việt Nam có quyền thực hiện các biện pháp cần thiết để đảm bảo các quy định trên phải được tuân thủ bởi không những các tàu thuyền của Việt Nam mà kể cả các tàu thuyền nước ngoài đi lại trong khu vực này.
Liên quan đến thềm lục địa, có nhiều trường hợp các quốc gia ven biển có thềm lục địa kéo dài chỉ có 200 hải lý và cột nước phía trên nó cũng là vùng nước đặc quyền kinh tế. Nhưng với các điều kiện địa chất thuận lợi, Việt Nam nằm trong số các quốc gia có thể mở rộng thềm lục địa ra xa hơn.
Năm 2009, Việt Nam đã nộp hồ sơ mở rộng thềm lục địa của mình cho Uỷ ban ranh giới thềm lục địa của Liên Hợp Quốc và đang chờ sự xác nhận của cơ quan này.Tuy nhiên, trong thềm lục địa 200 hải lý, Việt Nam đã có đầy đủ các quyền chủ quyền tại đây mà không một sự chiếm đóng hay khai thác của bất cứ quốc gia nào khác có thể làm ảnh hưởng đến tính chất pháp lý của thềm lục địa Việt Nam.
Quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam ở thềm lục địa tương tự các quyền này ở vùng đặc quyền kinh tế. Tuy nhiên, luật biển quốc tế nhấn mạnh rằng, các hoạt động khoan vào thềm lục địa dù dưới bất cứ hình thức hay mục đích gì đều phải tuân theo các quy định và quản lý của Chính phủ Việt Nam.
Thứ ba, quyền tự do đi lại của tàu thuyền nước ngoài. Đối với cột nước của vùng đặc quyền kinh tế hay cột nước nằm trên thềm lục địa, các tàu thuyền của các quốc gia khác có quyền tự do đi lại.Mặc dù vậy, các hoạt động này phải cần lưu ý và không được có bất cứ hành động nào liên quan đến các hoạt động khai thác kinh tế và các công trình được các quốc gia ven biển xây dựng tại đây. Thậm chí, luật biển quốc tế còn cho phép các quốc gia ven biển thiết lập các vùng an toàn không quá 500m bao quanh các công trình của mình.Việc tôn trọng các vùng an toàn này là nghĩa vụ bắt buộc của tất cả các tàu thuyền, bất chấp quốc tịch, khi đi lại tại đây.
Thứ tư, vùng biển Việt Nam ở Biển Đông là độc lập, không chồng lấn.
Hiện nay, Việt Nam đã cơ bản hoàn thành các nghĩa vụ pháp lý quốc tế để xác lập vững chắc các vùng biển của mình từ đất liền và các đảo gần bờ.Căn cứ vào phán quyết của Toà Trọng tài thường trực quốc tế về Luật Biển (PCA) trong vụ kiện giữa Philippines đối với Trung Quốc, các thực thể tại quần đảo Trường Sa không thể thiết lập các vùng biển xa hơn 12 hải lý xung quanh nó, có thể nói các vùng biển của Việt Nam độc lập và không bị chồng lấn với các vùng biển tạo ra từ quần đảo này.
Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đã và đang tiến hành phân định biển với các quốc gia láng giềng ở phía bắc, Trung Quốc, đến các quốc gia ở vùng biển phía namnhư Philippines, Malaysia, Indonesia và Campuchia.
Trên đây là những nội dung cơ bản trong Luật biển năm 2012 của Việt Nam để Việt Nam thực thi các biện pháp bảo vệ chủ quyền của mình, do đó, bất cứ hành động nào xâm phạm đến các quyền đã kể trên của Việt Nam đều vi phạm luật biển Việt Nam và luật biển quốc tế.Điều này đã được khẳng định một lần nữa trong tuyên bố của Việt Nam vào ngày 19/07/2019 liên quan đến các hành vi khiêu khích của tàu Trung Quốc tại vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam (bãi Tư Chính).Theo Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng, trong những ngày qua, nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 của Trung Quốc đã có hành vi vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam ở khu vực phía nam Biển Đông. Đây là vùng biển hoàn toàn của Việt Nam, được xác định theo đúng các quy định của UNCLOS 1982mà Việt Nam và Trung Quốc đều là thành viên. Việt Nam đã tiếp xúc nhiều lần với phía Trung Quốc ở các kênh khác nhau, trao công hàm phản đối, kiên quyết yêu cầu chấm dứt ngay các hành vi vi phạm, rút toàn bộ tàu ra khỏi vùng biển Việt Nam; tôn trọng quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam vì quan hệ hai nước và ổn định, hòa bình ở khu vực.Các lực lượng chức năng trên biển của Việt Nam đã triển khai nhiều biện pháp phù hợp thực thi chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán một cách hòa bình, đúng pháp luật nhằm bảo vệ vùng biển Việt Nam.
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét