Home » biendao
Thứ Năm, 19 tháng 9, 2019
Quá trình ASEAN tham gia giải quyết tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông (phần 1)
BDN - Theo nhìn nhận của giới học giả nghiên cứu, tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông đã manh nha từ giai đoạn cuối của chiến tranh thế giới thứ hai, khi các bên thắng và thua trận trong chiến tranh ngồi lại với nhau để phân chia lãnh thổ, đền bù thiệt hại chiến tranh và theo thời gian, sự tranh chấp trên từng bước leo thang dưới thời chiến tranh lạnh, tới mức đã xảy ra vài cuộc xung đột quân sự cục bộ trên Biển Đông. Nhưng ngoại trừ nạn nhân là Việt Nam Cộng hòa bị “ức hiếp” mà “kêu la” ra, hầu như không có ai quan tâm, kể cả tổ chức khu vực được thành lập năm 1967 là Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), khi đó có 5 thành viên gồm Philippines, Malaysia, Indonesia, Singapore và Thailand, trong đó có đến 4 thành viên có chủ quyền trên Biển Đông trừ Thailand cũng “im hơi lặng tiếng”. Lý do chính là vì khu vực Đông Nam Á thời gian đó đang là chiến tuyến giữa hai thế lực cộng sản và phi cộng sản và đối với 5 nước trên, nhiệm vụ phối hợp cùng Mỹ ngăn chặn “làn sóng đỏ” mới là hàng đầu. Vì thế, cả Mỹ và ASEAN hầu như không có phản ứng nào trước việc Trung Quốc dùng vũ lực chiếm quần đảo Hoàng Sa vào năm 1974 và một phần quần đảo Trường Sa của Việt Nam vào năm 1988. Tuy nhiên, những hành động trên của Trung Quốc cũng khiến 5 nước ASEAN giật mình, nhất là Philippines, từ năm 1971 đã đưa quân chiếm một số đảo của quần đảo này.
Phải đến khi lực lượng hải quân Trung Quốc hiện diện khá đông đảo ở quần đảo Trường Sa vào cuối những năm 1980, tiếp theo là việc quân Mỹ “vắng bóng” tại căn cứ hải quân Subic và căn cứ không quân Clark của Philippines ở đầu thập niên 90 của thế kỷ XX mới khiến ASEAN, nhất là Philippines phải “xắn tay áo” can dự vào vấn đề Biển Đông. Tháng 7/1992, tại Manila, ASEAN thông qua “Tuyên bố ASEAN về Biển Đông”, đánh dấu lần đầu tiên tổ chức này đưa ra văn kiện chính thức bày tỏ quan điểm về vấn đề Biển Đông, trong đó nêu rõ rằng “mọi diễn biến bất lợi ở Biển Đông đều ảnh hưởng trực tiếp đến hòa bình và ổn định của khu vực” và nhấn mạnh “sự cần thiết phải giải quyết tất cả các vấn đề tài phán và chủ quyền gắn liền với Biển Đông bằng các biện pháp hòa bình, không sử dụng vũ lực”.
Đến năm 1995, Trung Quốc ngang nhiên đưa quân đánh chiếm một số đảo đá thuộc bãi Vành Khăn. Sự kiện trên đã gióng lên hồi chuông báo động ASEAN rằng sau Việt Nam, lần lượt tới các nước trong khu vực có tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông sẽ được Trung Quốc “hỏi thăm”. Các nước ASEAN hiểu rằng, họ có muốn được yên thân cũng không xong. Vì vậy, cùng với thái độ phản đối rõ ràng của Mỹ đối với Trung Quốc liên quan đến sự kiện bãi Vành Khăn, ASEAN, lúc này đã tăng lên thành 7 nước thành viên (trong đó có Việt Nam), đã có sự đoàn kết và nỗ lực tập thể rất lớn ngay trong năm 1995 và đã mang lại kết quả đáng khích lệ. ASSEAN đã liên tục đưa ra các tuyên bố hay thông cáo chung về vấn đề này. Tuyên bố tháng 3/1995 của Ngoại trưởng các nước ASEAN nhấn mạnh rằng “chúng tôi kêu gọi tất cả các bên kiềm chế các hành động gây bất ổn ở khu vực và đe dọa đến hòa bình và an ninh ở Biển Đông”, đồng thời ASEAN “đặc biệt kêu gọi một giải pháp sớm cho các vấn đề gây ra bởi những diễn biến gần đây ở bãi đá Vành Khăn”. Những nội dung trên cũng được nhấn mạnh trong Thông cáo chung của Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN lần thứ 28 (AMM-28) tổ chức tại Brunei tháng 7/1995 và đặc biệt là Tuyên bố chung của Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 5 tổ chức tại Bangkok, Thailand tháng 2/1995.
Sang năm 1996, hội nghị Ngoại trưởng ASEAN lần thứ 29 (AMM-29) tổ chức tại Jakarta, Indonesia tháng 7/1996 đã tán thành ý tưởng về soạn thảo và thông qua một Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC). Sáng kiến này được nhắc lại trong Kế hoạch hành động Hà Nội năm 1998. Tuy nhiên, việc soạn thảo văn kiện trên bị kéo dài sang năm 1999 mới bắt đầu, khi phía Trung Quốc đồng ý tham gia vào tiến trình này với một bản dự thảo riêng của họ. Sau gần bốn năm thương thuyết với Trung Quốc, ASEAN đã không đạt được mục tiêu ban đầu đặt ra là có một văn kiện mang tính ràng buộc pháp lý về vấn đề Biển Đông (COC). Thay vào đó, là một Tuyên bố ứng xử của các bên về Biển Đông (DOC) được thông qua vào tháng 11/2002 tại Phnom Penh với những cam kết chính trị 7 điểm khá chung chung. Mặc dù vậy, DOC cũng đã khẳng định cam kết của các bên liên quan giải quyết tranh chấp bằng con đường hòa bình, đưa ra các biện pháp xây dựng lòng tin và các hoạt động hợp pháp trên Biển Đông. Với tuyên bố này, ít nhiều nó cũng đã ngăn cản Trung Quốc đưa quân đánh chiếm thêm các vị trí mới trên Biển Đông.
Song trên thực tế, những cam kết chính trị, thiếu sự ràng buộc về mặt pháp lý của DOC khó phát huy hiệu quả trong ngăn ngừa xung đột leo thang ở Biển Đông. Trước tình hình nóng lên tại vùng biển này, Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN tổ chức tại Singapore năm 2008 đã đưa ra Thông cáo chung nhấn mạnh “sự cần thiết phải tăng cường các nỗ lực thúc đẩy thực thi DOC, bao gồm sớm hoàn thiện các Hướng dẫn thực thi DOC”. Nội dung này cũng được nhấn mạnh trong Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN tại Hà Nội năm 2010. Vào năm 2011, khi tình hình Biển Đông trở nên khá căng thẳng, các nước ASEAN đã nỗ lực cùng với Trung Quốc thông qua “Bản Quy tắc Hướng dẫn DOC”. Mặc dù nội dung 8 điểm của bản Hướng dẫn này còn hết sức chung chung, không khác gì mấy so với bản Tuyên bố DOC năm 2002, nhưng nó cũng góp phần tạm thời “hạ nhiệt” tình hình căng thẳng ở Biển Đông, duy trì ASEAN vượt qua thách thức bởi sự chia rẽ, đoàn kết trở lại để tiếp tục hướng tới xây dựng COC.
Để thúc đẩy tiến trình COC, từ cuối tháng 6/2012, ASEAN đã hoàn tất “Tài liệu quan điểm của ASEAN về các thành tố cần có của COC” và sau đó được trình lên Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN lần thứ 45 (AMM-45) tổ chức tại Phnom Penh. Ngày 9/7/2012, các ngoại trưởng ASEAN đã nhất trí về những thành tố cơ bản của COC. Tuy nhiên, do những khác biệt về quan điểm của một số nước thành viên sau đó, ASEAN đã không đưa ra được một Tuyên bố chung có liên quan đến vấn đề Biển Đông. Một tuần sau, Hội nghị AMM-45 diễn ra, với nỗ lực ngoại giao con thoi của Indonesia, ASEAN mới đưa ra được “Tuyên bố về nguyên tắc 6 điểm về Biển Đông” trong đó Điểm 3 có đề cập đến việc “sớm đạt được Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC)”. Xét về nội dung, bản tuyên bố 6 điểm này là sự “dậm chân” tại chỗ, nếu như không nói là bước thụt lùi so với các văn kiện của ASEAN liên quan đến vấn đề Biển Đông trước đó.

- 越南努力减少海洋塑料污染
- Việt Nam tăng cường quản lý giảm ô nhiễm rác thải nhựa đại dương
- 昏果岛的历史、自然条件与发展潜力
- Lịch sử, điều kiện tự nhiên và tiềm năng phát triển của đảo Cồn Cỏ
- 白龙尾岛的自然条件与发展历史
- Điều kiện tự nhiên và lịch sử phát triển của đảo Bạch Long Vĩ
- 侵犯越南黄沙长沙主权的行为均为无效
- Mọi hành vi xâm phạm chủ quyền của Việt Nam ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là vô giá trị
- 越南努力促进海洋经济跨产业集群快速和可持续发展
- Phát triển nhanh và bền vững các cụm liên kết ngành kinh tế biển
- 越南为联合国国际法委员会作出积极贡献
- Việt Nam đóng góp tích cực tại Uỷ ban Luật quốc tế của Liên hợp quốc
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét