Home » HD-8
Thứ Hai, 7 tháng 10, 2019
Làm rõ tính chất pháp lý của khu vực Bãi Tư Chính
BDN - Trong suốt hơn 2 tháng qua kể từ đầu tháng 7/2019,
Trung Quốc cho tàu khảo sát địa chấn Hải Dương 08 và nhiều tàu hải cảnh, tàu
dân quân biển quần thảo ở khu vực bãi Tư Chính. Nhiều nhà nghiên cứu, nhà phân
tích và luật gia đã lên tiếng chỉ trích hành vi này của Trung Quốc. Trong bài
viết này, chúng ta cùng phân tích tính chất pháp lý của khu vực bãi Tư Chính để
làm sáng tỏ những hành vi ngang ngược của Trung Quốc.
Một điều có thể khẳng định là khu vực mà tàu khảo sát Địa chất
Hải Dương 08 của Trung Quốc hoạt động từ đầu tháng 7 nằm hoàn toàn trong phạm
vi vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, được xác định trên cơ sở
Điều 57 và Điều 76 của Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển 1982 (UNCLOS).
Đây hoàn toàn không phải là khu vực chồng lấn hoặc có tranh chấp giữa Việt Nam
và Trung Quốc. UNCLOS quy định rõ ràng rằng nếu quốc gia ven biển không thăm dò
hay khai thác tài nguyên ở các vùng này thì không ai có quyền tiến hành các hoạt
động này nếu không được phép của quốc gia ven biển.
Kể từ đầu tháng 7/2019 đến nay, Việt Nam đã nhiều lần phản đối
Bắc Kinh qua đường ngoại giao và phát biểu công khai của Người phát ngôn Bộ Ngoại
giao Việt Nam phản đối hành vi xâm lấn của Trung Quốc và yêu cầu rút tàu. Hoạt động
của tàu Địa chất Hải Dương 08 và các tàu chấp pháp, tàu dân quân biển của Trung
Quốc, bất chấp sự phản đối của phía Việt Nam, đã vi phạm nghiêm trọng quy định
của UNCLOS và luật pháp Việt Nam liên quan đến quyền chủ quyền và quyền tài
phán của Việt Nam trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam. Trung
Quốc và Việt Nam đều là thành viên UNCLOS nên có nghĩa vụ thực hiện các điều
khoản của Công ước.
Một số chuyên gia luật quốc tế Trung Quốc sử dụng một đoạn
trong lời mở đầu của UNCLOS là "các vấn đề không quy định trong Công ước sẽ
tiếp tục được xử lý bằng các quy tắc và nguyên tắc của pháp luật quốc tế
chung" để biện minh cho yêu sách mập mờ của Trung Quốc ở Biển Đông. Tuy
nhiên, các vấn đề về chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia, đặc
biệt là vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa đều đã được UNCLOS quy định rõ
ràng trong Điều 57 và Điều 76. Phải chăng các chuyên gia luật Trung Quốc giả vờ
“ngộ nhận” để lấp liếm cho các hành vi ngang ngược của họ?
Lâu nay, Trung Quốc yêu sách vùng biển theo“đường lưỡi bò” ở
Biển Đông do một tư nhân Trung Quốc tự vẽ ra năm 1947 và sau này Trung Quốc
đính bản đồ vẽ “đường lưỡi bò” kèm theo công hàm gửi lên Liên hợp quốc năm
2009. Trung Quốc cho rằng khu vực bãi Tư Chính nằm trong “đường lưỡi bò” nên là
“vùng biển của Trung Quốc”.
“Đường lưỡi bò” với những nét vẽ đứt khúc thay đổi thất thường
(lúc đầu là 11 đoạn, sau lại có 9 đoạn rồi lại 10 đoạn và gần đây một số chuyên
gia Trung Quốc vẽ thành 1 đoạn liền); không có tọa độ rõ ràng và bị cộng đồng
quốc tế phản đối. Trong vụ kiện giữa Philippines và Trung Quốc năm 2016, Tòa Trọng
tài Thường trực đã ra phán quyết khẳng định không có cơ sở pháp lý để Trung Quốc
yêu sách quyền lịch sử đối với tài nguyên tại vùng biển trong "đường lưỡi
bò". Do vậy, Trung Quốc hoàn toàn không có cơ sở pháp lý để đòi yêu sách đối
với khu vực bãi Tư Chính.
Sau phán quyết 12/7/2016 của Tòa Trọng tài, Trung Quốc đưa ra
một khái niệm yêu sách mới “Tứ Sa” (bao gồm bốn nhóm đảo: “Đông Sa” (quần đảo
Pratas), “Tây Sa” (quần đảo Hoàng Sa), “Nam Sa” (quần đảo Trường Sa) và “Trung
Sa” (bãi Macclesfield); đồng thời, cũng đòi hỏi quyền được hưởng vùng đặc quyền
kinh tế 200 hải lý (gần như toàn bộ Biển Đông) xung quanh bốn khu vực quần đảo
này.
Gần đây, trả lời câu hỏi liên quan đến vụ việc ở bãi Tư Chính
từ đầu tháng 7/2019, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc đưa ra luận điệu
khu vực mà tàu Hải Dương 08 hoạt động thuộc vùng biển của Trung Quốc tính từ quần
đào Trường Sa là xuất phát từ khái niệm “Tứ Sa” nói trên. Với cách lập luận này
Trung Quốc hy vọng có thể giải thích một cách mơ hồ, mập mờ theo UNCLOS. Tuy
nhiên, luận điệu này của Trung Quốc hoàn toàn trái với các quy định của UNCLOS
vì quần đảo Trường Sa không phải là một quốc gia quần đảo nên không thể vẽ đường
cơ sở xung quanh quần đảo này để rồi đòi vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa
riêng.
Hơn thế nữa, phán quyết 12/7/2016 của Tòa Trọng tài vụ kiện
Biển Đông đã khẳng định các thực thể thuộc Trường Sa, bao gồm Ba Bình (cấu trúc
có diện tích lớn nhất thuộc Trường Sa, hiện do Đài Loan chiếm đóng) không đủ điều
kiện để được coi là 1 đảo theo Điều 121 của UNCLOS vì vậy các cấu trúc thuộc
Trường Sa chỉ có tối đa 12 hải lý lãnh hải, không có vùng đặc quyền kinh tế và
thềm lục địa riêng. Như vậy, phán quyết này cũng đã bác bỏ hoàn toàn yêu sách của
Trung Quốc đối với khu vực bãi Tư Chính.
Qua đó, có thể khẳng định khu vực bãi Tư Chính hoàn toàn thuộc
quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam và không có sự chồng lấn với bất cứ
quốc gia nào. Một số luật gia có ý kiến cho rằng việc đường cơ sở phía Nam Biển
Đông của Việt Nam với điểm cơ sở là đảo Phú Quý và Côn Đảo nằm quá xa bờ không
phù hợp với UNCLOS, tuy nhiên họ cũng cho rằng kể cả khi Việt Nam điều chỉnh điểm
cơ sở vào sát bờ biển phía Nam thì bản thân đảo Phú Quý và Côn Đảo hoàn toàn đủ
điều kiện có vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa riêng và như vậy vùng biển
thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán không bị thu hẹp
Tóm lại, xét từ bất cứ góc độ nào khu vực bãi Tư Chính đều
hoàn toàn thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam, không liên quan
gì đến quần đảo Trường Sa như Trung Quốc viện dẫn để bao biện cho các hành vi
sai trái vi phạm luật pháp quốc tế, UNCLOS và phán quyết 12/7/2016 của Tòa Trọng
tài.
Trên tinh thần thượng tôn pháp luật, đề cao UNCLOS 1982, ngày
12/9/2019, trả lời câu hỏi của phóng viên, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt
Nam cũng đã đưa ra những lập luận pháp lý của Việt Nam đối với khu vực mà nhóm
tàu Hải Dương 08 đang gây hấn, khẳng định: “Mọi hoạt động kinh tế biển của Việt
Nam, trong đó có hoạt động dầu khí, đều được triển khai trong vùng đặc quyền
kinh tế và thềm lục địa hoàn toàn thuộc Việt Nam, được xác định từ lãnh thổ đất
liền, theo đúng quy định của UNCLOS 1982 mà cả Việt Nam và Trung Quốc đều là
thành viên”; “UNCLOS 1982 đã xác định rõ phạm vi, và là cơ sở pháp lý duy nhất
để các quốc gia xác định quyền hưởng các vùng biển của mình”; “Những yêu sách bất
hợp pháp, không phù hợp với UNCLOS 1982 không thể là cơ sở để khẳng định rằng
có tồn tại các vùng biển tranh chấp hay chồng lấn. Các hành vi cản trở các hoạt
động dầu khí của Việt Nam trên vùng biển của Việt Nam là sự vi phạm luật pháp
quốc tế và UNCLOS 1982”.
Mỹ là quốc gia rất thận trọng trong việc đưa ra quan điểm
liên quan đến các vấn đề pháp lý. Các chuyên gia của Mỹ cũng đã nghiên cứu rất
kỹ về tính chất pháp lý của khu vực bãi Tư Chính trước khi có các phát biểu
chính thức về hành động của Trung Quốc ở khu vực này. Việc Bộ Ngoại giao và nhiều
Nghị sĩ, quan chức Mỹ phát biểu lên án Trung Quốc xâm phạm khu vực bãi Tư Chính
của Việt Nam, coi đây là hành động cưỡng chế, bắt nạt các nước rõ ràng cho thấy
Mỹ đã thừa nhận khu vực Tư Chính thuộc vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa Việt
Nam phù hợp với quy định của UNCLOS.
Nhiều nước khác Ấn Độ, Nhật, Úc, Anh, Pháp, Đức và EU... cũng
đều lên tiếng phê phán hành vi của Trung Quốc vi phạm luật pháp quốc tế, nhất
là UNCLOS, yêu cầu tôn trọng các quyền lợi chính đáng của các nước ven biển và
tuân thủ phán quyết 12/7/2016 của Tòa Trọng tài. Điều này cho thấy, khu vực bãi
Tư Chính thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam được thừa nhận rộng
rãi trong cộng đồng quốc tế.
Không có bất cứ một quốc gia nào lên tiếng bênh vực cho hành
vi của Trung Quốc ở khu vực bãi Tư Chính, thậm chí ngay cả các học giả, luật
gia Trung Quốc cũng không đưa ra được bất cứ cơ sở pháp lý nào để biện hộ cho
hành vi sai trái của họ ở khu vực bãi Tư Chính.
Những người cầm quyền ở Bắc Kinh đã bất chấp tất cả từ luật
pháp quốc tế đến ý kiến của các nước và cộng đồng quốc tiếp tục lấn sâu vào con
đường bành trướng, bá quyền của chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi Đại Hán thì làm sao họ
có thể thực hiện được cái “Giấc mộng Trung Hoa” mà ông Tập Cận Bình đề ra.
Trong hơn 2 tháng qua, nhóm tàu Hải Dương 08 của họ ngang ngược
tiến hành khảo sát ở khu vực bãi Tư Chính cũng không thể thay đổi được tính chất
pháp lý của khu vực bãi Tư Chính và họ cũng không thể thực hiện được mưu đồ biến
khu vực hoàn toàn không có tranh chấp thành khu vực tranh chấp bởi lẽ quyền chủ
quyền và quyền tài phán của Việt Nam tại khu vực bãi Tư Chính đã được luật pháp
quốc tế bảo vệ, được quốc tế công nhận. Điều này là không thể đảo ngược được
cho dù Bắc Kinh có trăm phương nghìn kế.
Chân lý và lẽ phải luôn là trường tồn và bất diệt.
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét