Home » biendao
Thứ Bảy, 5 tháng 10, 2019
Nhìn lại lịch sử Việt Nam chiếm hữu, làm chủ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (phần 4)
BDN - Tháng 4/1975, đất nước Việt Nam chuyển sang bước ngoặt lịch sử: Chính quyền VNCH sụp đổ, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hoàn thành sự nghiệp giải phóng, thống nhất đất nước. Saukhigiảiphóngđấtnước, Việt Nam tiếp tục thực thi chủ quyền của mìnhđối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Từ 13 - 28/04/1975, các lực lượng Quân đội Nhân dân Việt Nam đã tiếp quản các đảo có quân đội VNCH đóng giữ, đồng thời triển khai lực lượng đóng giữ một số đảo khác trong quần đảo Trường Sa.
Ngày 05/06/1975, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tuyên bố khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Ngày 02/07/1976, tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa 6 (1976-1981), Quốc hội của nước Việt Nam thống nhất (được bầu vào ngày 25/04/1976) đã quyết định đổi tên nước là Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa (CHXHCN) Việt Nam. Nhà nước CHXHCN Việt Nam hoàn toàn có nghĩa vụ, quyền hạn tiếp tục quản lý và bảo vệ chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Ngày 12/05/1977, Chính phủ CHXHCN Việt Nam ra tuyên bố về các vùng biển và thềm lục địa Việt Nam, trong đó khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Ngày 28/09/1979, Bộ Ngoại giao nước CHXHCN Việt Nam công bố “Sách trắng chủ quyền Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa”, trong đó đã giới thiệu 19 tài liệu liên quan đến chủ quyền Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Tháng 12/1981, Bộ Ngoại giao Việt Nam công bố “Sách trắng quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, lãnh thổ Việt Nam”.
Ngày 12/11/1982, Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam ra Tuyên bố về hệ thống đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải ven bờ lục địa Việt Nam.
Ngày 09/12/1982, Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam ký Quyết định số 193-HĐBT thành lập huyện Trường Sa thuộc tỉnh Đồng Nai. Ngày 11/12/1982, ký quyết định số 194-HĐBT thành lập huyện Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam -Đà Nẵng.
Ngày 28/12/1982, Quốc hội khóa 7 nước CHXHCN Việt Nam ra Nghị quyết sáp nhập huyện Trường Sa vào tỉnh Phú Khánh.
Ngày 11/04/2007, Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam ký Nghị định số 65-NĐ/CP quyết định thành lập 3 đơn vị hành chính trực thuộc huyện Trường Sa bao gồm:Thị trấn Trường Sa, gồm đảo Trường Sa Lớn và phụ cận; Xã Song Tử Tây, gồm đảo Song Tử Tây và phụ cận; Xã Sinh Tồn, gồm đảo Sinh Tồn và phụ cận.
Năm 1988, CHND Trung Hoa đánh chiếm các bãi cạn phía tây bắc quần đảo Trường Sa. Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam đã thông báo cho Liên Hợp Quốc và gửi các Công hàm tố cáo và phản đối CHND Trung Hoa đã đánh chiếm các bãi cạn thuộc quần đảo Trường Sa gồm: Chữ Thập, Châu Viên, Gaven, Tư Nghĩa, Gạc Ma, Su Bi.
Tháng 4/1988, Bộ Ngoại giao nước CHXHCN Việt Nam công bố “Sách trắng các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và Luật pháp quốc tế”.
Ngày 01/07/1989, tỉnh Phú Khánh được tách làm hai tỉnh: Phú Yên và Khánh Hòa, huyện đảo Trường Sa thuộc tỉnh Khánh Hòa.
Ngày 23/06/1994, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam ra Nghị quyết phê chuẩn Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982.
Ngày 01/01/1997, Đà Nẵng tách khỏi tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng trở thành thành phố trực thuộc Trung ương, huyện đảo Hoàng Sa trực thuộc thành phố Đà Nẵng.
Ngày 25/04/2009, Thành phố Đà Nẵng công bố quyết định bổ nhiệm ông Đặng Công Ngữ giữ chức Chủ tịch UBND Huyện Hoàng Sa.
Cho đến nay, ngoài những hoạt động kể trên, Việt Nam đang đóng giữ và quản lý 21 vị trí với 33 điểm đóng quân tại quần đảo Trường Sa, huyện đảo Trường Sa thuộc tỉnh Khánh Hòa.
Từ những chứng cứ trên đây, có thể khẳng định rằng, Nhà nước Việt Nam là nhà nước đầu tiên trong lịch sử, ít nhất là từ thế kỷ XVI, đã chiếm hữu và thực thi chủ quyền của mình đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Việc chiếm hữu và thực thi chủ quyền này là thực sự, rõ ràng, liên tục và hòa bình; phù hợp với nguyên tắc của luật pháp và thực tiễn quốc tế hiện thời.Trong suốt hàng trăm năm làm chủ như vậy, không có một tài liệu nào, hành động nào từ phía các chính quyền Trung Quốc cho thấy họ làm được điều tương tự như Việt Nam. Bởi chính trong thời gian trên, Trung Quốc còn mải mê với việc chinh chiến trên đất liền, phát triển đế chế “Trung nguyên”, tiến hành “bế quan tỏa cảng” không chơi với ai thì họ đâu có quan tâm đến biển cả và những vùng đất ngoài khơi xa. Cũng không có tài liệu, chứng cứ nào từ phía Trung Quốc đòi “chủ quyền” ngoại trừ những “khiếu nại” từ chính quyền Tưởng Giới Thạch năm 1951 và chính quyền này sau đó đã không làm gì để chứng minh được “chủ quyền” của mình. Mãi đến năm 1974, sau khi đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, Trung Quốc mới huy động đông đảo các học giả tiến hành kê cứu và biên soạn một cuốn sách đồ sộ, ra sức chứng minh hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (họ gọi là Tây Sa và Nam Sa) thuộc “chủ quyền” Trung Quốc. Năm 1985, bộ sách hoàn thành với tiêu đề “Ngã quốc Nam hải chư đảo sử liệu hối biên” (tập hợp các sử liệu về các đảo của nước ta ở vùng biển phía nam) và tái bản năm 1988 bởi nhà xuất bản Đông Phương. Tập sách này nhanh chóng trở thành cơ sở lập luận chủ yếu cho các tuyên bố ngoại giao, những quyết định chính trị của Trung Quốc trong các vấn đề liên quan đến Hoàng Sa, Trường Sanói riêng, Biển Đông nói chung. Tư tưởng xuyên suốt của cuốn sách là cố chứng minh người Trung Quốc đã phát hiện, đặt tên các đảo và chiếm hữu hai quần đảo này từ thời Đông Hán, cách ngày nay gần 2000 năm. Sau đó đến các thời Đường, Tống, Nguyên, Minh và nhất là từ triều nhà Thanh đến nay, Trung Quốc liên tục thực thi chủ quyền trên hai quần đảo này. Phương pháp nhất quán của các tác giả sách này là không nói rõ bối cảnh lịch sử, trích dẫn cắt xén, gán ghép tư liệu để người đọc khó hình dung được bối cảnh lịch sử, ngữ cảnh nguyên tác, rồi giải thích ý nghĩa những đoạn trích ấy theo ý mình. Nhưng chỉ cần trích dẫn nhận xét sau đây của học giả người Trung Quốc, giáo sư Lý Lệnh Hoa,thuộc Trung tâm Thông tin hải dương Trung Quốc, đã cho thấy rằng Trung Quốc không có đủ cơ sở về quyền chiếm hữu và thực thi chủ quyền liên tục đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong lịch sử. Ông Lý Lệnh Hoa viết: “Nói đến quyền lợi Nam Hải (tức Biển Đông), chúng ta thường thích nói một câu là từ xưa đến nay thế này thế nọ, có lúc hứng lên còn thêm vào hai chữ thiêng liêng. Đó chính là cái gọi là chứng cứ lịch sử… Nhưng chứng cứ lịch sử đó có ý nghĩa ngày càng nhỏ trong luật quốc tế hiện đại. Chứng cứ thật sự có sức thuyết phục chính là sự kiểm soát thực tế. Anh nói chỗ đó là của anh, vậy anh đã từng quản lý nó chưa. Người ở đó có phục tùng sự quản lý của anh không. Nếu đáp án của những câu hỏi này đều là có thì anh thắng là điều chắc. Ở Nam Sa, chúng ta đã không có được điều đó…”.
Không phải ông Lý Lệnh Hoa có cảm tình với Việt Nam hay “ăn tiền” của Việt Nam mà có nhận xét “có lợi” cho Việt Nam như vậy. Mà cái chính ông là học giả chân chính, cũng bới tung kho lịch sử Trung Hoa ra để tìm bằng chứng bênh vực cho chủ quyền của nước mình nhưng tìm mãi không ra. Trong khi, vì là học giả, ông cũng phải nghiên cứu cả sử liệu của Việt Nam và những chứng cứ về quyền chiếm hữu và thực thi chủ quyền liên tục đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam lại quá đầy đủ, quá rõ ràng khiến ông không thể “a dua” theo đám “học thật” theo ý chỉ của lãnh đạo Bắc Kinh mà “nói lấy được”. Chính giới lãnh đạo Bắc Kinh cũng thừa biết rằng nếu mang cái sự “nói lấy được” trình bày trong cuốn sách nói trên của họ ra Tòa trọng tài thường trực của Liên Hợp Quốc để đọ với những bằng chứng lịch sử của Việt Nam thì họ lại thua là chắc chắn. Thế nên, họ cứ một mực từ chối sự phân xử của bất cứ tòa án quốc tế nào về vấn đề chủ quyền ở Biển Đông.
Nhân dịp kỷ niệm 74 năm ngày đất nước độc lập, nhìn lại lịch sử Việt Nam chiếm hữu, làm chủ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mới thấy hết những gì mà các thế hệ người Việt đi trước đã làm là vô cùng mẫn tiệp và lớn lao. Những bằng chứng lịch sử trên chính là nguồn cổ vũ các thế hệ người Việt đi sau có đủ dũng khí và tự tin để giữ gìn và bảo vệ thành quả do cha ông để lại.
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét