Home » biendao
Thứ Năm, 18 tháng 6, 2020
TQ chưa từng có chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa
(BDN)-Sau
khi yêu sách “chủ quyền” theo “đường chín khúc” bị Tòa Trọng tài thường trực quốc
tế (PCA) bác bỏ do không có cơ sở cả về pháp lý và thực tiễn, Trung Quốc thay đổi
thủ đoạn bằng cách chuyển qua đưa ra yêu sách “Tứ Sa” nhằm khẳng định chủ quyền
của họ đối với hơn 90% diện tích Biển Đông, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa.
Gần
đây, bước đi mới nhất của họ nhằm “hiện thực hóa” yêu sách này là ngang nhiên
công bố lập hai quận “Tây Sa” và “Nam Sa” quản lý Hoàng Sa và Trường Sa, trực
thuộc cái gọi là “thành phố Tam Sa”. Tiếp đó, Bắc Kinh còn “bày” ra chuyện công
bố “danh xưng tiêu chuẩn” cho 80 thực thể địa lý ở Biển Đông kèm theo kinh độ,
vĩ độ của chúng. Điều đáng chú ý là, trong những thực thể mà họ “liều mạng” đặt
tên, có những bãi cạn nằm sâu trong Vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, có điểm
chỉ cách bờ biển hoặc đường cơ sở của Việt Nam khoảng 50 hải lý. Những hành động
trên là sự “leo thang” phi pháp và mù quáng trong mưu đồ “độc chiếm” Biển Đông
của Bắc Kinh. Và nó không thể “khoác” cho Bắc Kinh “cái áo” là đang thực hiện
“quyền lịch sử” của mình được, bởi trong lịch sử, chính Trung Quốc chưa bao giờ
có chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa.
Nói
về sự phi pháp và mù quáng của Trung Quốc trong tuyên bố đòi hỏi chủ quyền vô
lý ở Biển Đông thì có rất nhiều tài liệu, văn bản, tuyên bố… đã vạch ra và đỉnh
cao là Phán quyết của PCA năm 2016 liên quan đến vụ kiện Trung Quốc của
Philippines và những quy định của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982
(UNCLOS 1982). Không ai là không biết hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc
chủ quyền lâu đời của Việt Nam. Nhưng có lẽ ít người biết được là dưới góc độ lịch
sử, chính bản thân chính quyền các triều đại Trung Quốc đã từng tuyên bố Hoàng
Sa và Trường Sa không thuộc chủ quyền của Trung Quốc và cũng ra sức chối bỏ
trách nhiệm thực thi chủ quyền đối với hai quần đảo này. Xin trích dẫn những chứng
cứ lịch sử sau đây để tất cả “bàn dân thiên hạ” được rõ.
Vừa
qua, nhà xuất bản Fushosha của Nhật Bản đã phát hành cuốn sách “Những điều người
Nhật Bản đang hiểu lầm về lịch sử cận, hiện đại Đông Nam Á” của Phó giáo sư
Shin Kawashima, nguyên giảng viên Đại học Tokyo, Nhật Bản. Trong cuốn sách
trên, tác giả đã chỉ ra hai tư liệu lịch sử quan trọng, thừa nhận chủ quyền của
Việt Nam ở Biển Đông do các nhà hàng hải châu Âu đưa ra từ thế kỷ XVI.
Tư
liệu lịch sử thứ nhất là tấm bản đồ “India Orientalis” (Đông Ấn Độ) được nhà
hàng hải Hà Lan tên là Jodocus Hondius (1563-1612) lập nên từ thế kỷ XVI, trong
đó cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được vẽ nối liền với nhau như hình một
mũi dao và được đặt tên chung là Paracel. Vùng bờ biển miền Trung Việt Nam đối
diện với hai quần đảo này được đặt tên là Costa de Paracel. Điều này chứng tỏ
tác giả bản đồ, ông Jodocus Hondius đã ghi nhận sự liên hệ mật thiết giữa lãnh
thổ Việt Nam với Paracel.
Tư
liệu lịch sử thứ hai được học giả người Nhật Bản đề cập chính là tấm bản đồ
“Siam and the Malay Archipelago” do The Times Atlas - Printing House Square xuất
bản tại London, Anh vào năm 1896. Trên bản đồ này đã có sự phân biệt rõ ràng giữa
các đảo thuộc Paracel (quần đảo Hoàng Sa) với các đảo thuộc quần đảo Trường Sa
và các đảo ven bờ biển miền Trung Việt Nam với tên gọi rất rõ ràng. Đặc biệt,
trong quần đảo Trường Sa có những đảo đã được ghi tên tiếng Việt như đảo Thị Tứ,
đảo Loại Ta, chứng tỏ người Việt đã quản lý, đặt tên cho các đảo này và được
các nhà bản đồ học châu Âu chấp nhận và ghi tên tiếng Việt lên bản đồ.
Với
hai tư liệu lịch sử quan trọng nêu trên, Phó giáo sư Kawashima khẳng định,
tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông là không có căn cứ, bởi khi mà
hai triều đại nhà Minh, nhà Thanh của Trung Quốc thực hiện chính sách “bế quan
tỏa cảng” và cấm người dân nước mình đi thuyền ra nước ngoài nên họ không hề có
tuyên bố chủ quyền nào về Paracel hay Hoàng Sa, Trường Sa. Trong khi đó, cũng
trong thời kỳ này, các nhà hàng hải châu Âu đã thừa nhận chủ quyền của Việt Nam
đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đưa cả tên tiếng Việt lên bản đồ.
Trước
đây, một số học giả Nga cũng đã đưa ra bằng chứng lịch sử khẳng định Hoàng Sa
và Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam. Theo giáo sư, tiến sỹ Dimitry
Valetinovich Mosyakov - Giám đốc Trung tâm nghiên cứu Đông Nam Á, Australia và
châu Đại Dương, Trưởng ban nghiên cứu Đông Nam Á thuộc Viện Nghiên cứu phương
Đông, Viện Hàn lâm khoa học Nga, trong bài viết “Chính sách của Trung Quốc đối
với các nước Đông Nam Á và ảnh hưởng của nó tới an ninh và cân bằng lực lượng ở
châu Á - Thái Bình Dương”, đăng trên tạp chí “Bình luận phương Đông mới”, đã
đưa ra bằng chứng, cứ liệu lịch sử chứng minh, vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ
XX, Trung Quốc đã từng tự phủ nhận chủ quyền của họ đối với Hoàng Sa và Trường
Sa.
Đó
là, vào những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XIX, chiếc tàu vận tải của Đức có
tên “Bellona” và tàu vận tải “Imega Maru” của Nhật Bản chở hàng hóa cho Vương
quốc Anh, trong đó chủ yếu là đồng kim loại làm nguyên liệu, nhưng bị chìm tại
vùng nước nông gần cụm đảo An Vĩnh thuộc quần đảo Hoàng Sa. Sau vụ đắm tàu này,
số đồng chở trên hai chiếc tàu bị chìm lại được phát hiện thấy ở đảo Hải Nam của
Trung Quốc chứ không nằm dưới hai con tàu. Sở dĩ như vậy là do dân Trung Quốc
trên lục địa khi biết hai con tàu trên “bị chìm” đã ra “trấn lột” hàng hóa và
“hôi của”. Theo luật hàng hải quốc tế, số đồng nguyên liệu này mặc dù bị chìm
nhưng vẫn thuộc sở hữu của nước Anh. Do đó, Công sứ Anh nhầm tưởng nơi tàu chìm
là vùng lãnh hải của Trung Quốc nên đã gửi công hàm chính thức phản đối nhà cầm
quyền Trung Quốc khi đó về việc cướp bóc hàng hóa của Anh trên hai con tàu bị
chìm. Đáp lại công hàm chính thức cáo buộc trên của Công sứ Anh, Bộ Ngoại giao
Trung Quốc lúc đó chính thức ra tuyên bố: “Trung Quốc không chịu trách nhiệm về
việc cướp bóc hàng hóa trên hai con tàu bị đắm vì quần đảo Hoàng Sa không thuộc
chủ quyền của Trung Quốc”.
Đấy
là hai trong số nhiều tài liệu, chứng cứ của các chuyên gia nước ngoài vạch ra
sự phủ định về chủ quyền của Trung Quốc ở Hoàng Sa và Trường Sa. Điều đáng nói
hơn, khả tín hơn là chính tư liệu lịch sử của Trung Quốc cũng đã đề cập đến hai
vụ tàu đắm mà giáo sư, tiến sỹ Dimitry Valetinovich Mosyakov nói đến trong bài
viết trên, nhưng nội dung còn cụ thể, rõ ràng hơn, mang tính pháp lý hơn. Đó
là:
Trong
khoảng thời gian hai năm 1895 - 1896, tại khu vực biển quần đảo Hoàng Sa
liên tục xảy ra hai vụ đắm tàu. Một vụ là tàu của Đức, con tàu mang tên
Bellona và một vụ là tàu của Nhật Bản, tàu Imegi Maru. Cả hai con tàu
này đều mua bảo hiểm của Anh nên khi nghe tin dân đánh cá Trung Quốc
thừa cơ tàu bị nạn đã ra cướp bóc, “hôi của” trên tàu, công ty bảo
hiểm và đại diện chính phủ Anh ở Trung Quốc đã yêu cầu nhà chức trách
Trung Quốc phải có trách nhiệm, nhưng họ đã từ chối với lý do: “…các
đảo Paracel … không thuộc Trung Quốc… chúng không được sáp nhập về hành chính
vào bất kỳ quận nào của Hải Nam …”. Như vậy là nhà đương cục Hải Nam vô
can với hậu quả của vụ cướp bóc, nhưng đồng thời sự kiện này cũng
cho thấy, cho đến tận cuối thế kỷ XIX, nhà chức trách ở vùng đất
cực nam của Trung Quốc hoàn toàn chưa có ý tưởng gì về chủ quyền
đối với quần đảo Hoàng Sa, gần Trung Quốc hơn, chứ chưa nói đến quần đảo
Trường Sa ở rất xa Trung Quốc.
Tư
liệu lịch sử trên của Trung Quốc là công khai, đầy đủ và không giấu diếm được.
Tất cả các nhà nghiên cứu của Trung Quốc đều biết, Vì thế, liên quan đến sự
kiện này, một học giả Trung Quốc, ông Lý Lệnh Hoa thuộc Trung tâm
Thông tin hải dương Trung Quốc, đã đưa ra nhận xét rất xác đáng trong tham
luận đọc tại một cuộc hội thảo khoa học của chính Trung Quốc, xin lược
trích như sau: “Nói đến quyền lợi ở Nam Hải, chúng ta (Trung Quốc) thường
thích nói một câu là từ xưa đến nay thế này thế nọ, có lúc hứng lên còn đưa vào
hai chữ thiêng liêng… Nhưng chứng cứ thật sự có sức thuyết phục chính là sự kiểm
soát thực tế. Anh nói chỗ đó là của anh, vậy anh đã từng quản lý nó chưa? Người
ở đó có phục tùng sự quản lý của anh không? Có phải người khác không có ý kiến
gì không? Nếu đáp án của những câu hỏi này đều là “có” thì anh thắng là điều chắc.
Ở Nam Sa (tức Trường Sa), chúng ta đã không có được điều đó… Vào thời nhà
Thanh, đời Hàm Phong hoặc Đồng Trị, có một chiếc tàu của Đức chở đồng đi qua
vùng biển Tây Sa (tức Hoàng Sa) thì gặp cướp biển, bị cướp sạch. Theo quy tắc
vận tải hàng hóa trên biển, họ phải đến gặp chính quyền sở tại để trình báo, đề
nghị giúp bắt bọn cướp, đồng thời xin chính quyền nơi đó xác nhận làm bằng cứ để
khi về báo cáo lại với chủ hàng và đòi hãng bảo hiểm bồi thường. Viên thuyền
trưởng đưa tàu chạy đến cảng gần nhất là Du Lâm ở đảo Hải Nam, trình báo với
quan tri phủ địa phương. Nhưng viên quan địa phương đó nói với thuyền trưởng
rằng, nơi chúng ta đứng đây có tên là Thiên Nhai Hải Giác (chân trời góc biển).
Đất của Thiên triều đến đây là hết rồi. Chuyện ông bị cướp ngoài biển biết là ở
chỗ nào? Khu vực ông bị cướp, chúng tôi không chịu trách nhiệm, không quản được
và cũng không muốn quản. Thế rồi, viên quan địa phương nói trên tống cổ vị
thuyền trưởng bị cướp ra khỏi nha môn. Nhưng sự kiện đó cần phải có cái kết, nếu
không về nước biết ăn nói ra sao đây với chủ hàng? Viên thuyền trưởng đành phải
cho tàu chạy vào cảng Hải Phòng. Quan chức địa phương ở đó rất tốt, họ không chỉ
xác nhận cho ông ta, mà còn cho tàu ra chạy mấy vòng, coi như đã truy bắt cướp.
Đó
là chứng cứ gì? Đó chính là chứng cứ về sự kiểm soát và quản lý thực tế của Việt
Nam. Chứng cứ này nói lên rằng, chính phủ Trung Quốc ngay từ thời triều Thanh
đã không thừa nhận Tây Sa là lãnh thổ của mình, cũng không đảm trách công tác
trị an ở đó. Còn chính quyền Việt Nam khi đó không những đã cho rằng Tây Sa là
lãnh thổ của họ, mà còn thực thi công tác giữ gìn trật tự ở đó. Điều đó chẳng
phải đã chứng minh Tây Sa từ xưa đến nay đều thuộc về Việt Nam hay sao? Nếu bạn
là đại biểu đàm phán của Trung Quốc, được huấn luyện đầy đủ về luật biển và luật
quốc tế, trước những chứng cứ như thế thì phải làm thế nào? Chắc chắn bạn sẽ
muốn có cỗ máy thời gian để quay trở lại thời đó để bóp chết viên tri phủ
kia!...”.
Lập
luận rõ ràng như thế, khúc triết và công minh như thế của nhà khoa học Trung Quốc
Lý Lệnh Hoa đã cho thấy, chứng cứ của chuyên gia Nga Dimitry Valetinovich
Mosyakov đưa ra không hề có gì là bịa đặt.
Không
những thế, việc Trung Quốc tự phủ nhận chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa còn được ghi nhận và công bố năm 1905 trong tập bản đồ mang tên “Đại
Thanh đế quốc toàn đồ”, trên đó chỉ rõ phần cực nam lãnh thổ Trung Quốc tại Biển
Đông là đảo Hải Nam. Rồi trong cuốn “Trung Quốc địa lý học giáo khoa thư” xuất
bản năm 1906 cũng xác định, điểm cực nam của Trung Quốc là mũi Châu Nhai thuộc
Hải Nam tại vĩ tuyến 18o13’. Thêm một bằng chứng lịch sử nữa là, vào giữa những
năm 1930, khi Chính phủ Pháp công bố sáp nhập hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa vào lãnh thổ Đông Dương, phía Trung Quốc cũng không có bất kỳ sự phản đối
chính thức nào.
Trên
đây chỉ là một vài chứng cứ lịch sử cho thấy, Trung Quốc chưa bao giờ thừa nhận
chủ quyền của họ đối với Hoàng Sa và Trường Sa. Và chính vì thừa nhận không có
chủ quyền với hai quần đảo này nên các triều đại ở Trung Quốc đâu có nghĩ đến
chuyện “đặt tên” cho các đảo, đá, bãi ngầm nằm ngoài sự cai quản của họ. Logic
đó là tất yếu và quá đúng. Do đó, hành động vừa qua của chính quyền Trung Quốc
là hoàn toàn sai trái. Việc nước này đặt “danh xưng” cho các chủ thể địa lý
trên Biển Đông chẳng qua là bước đi nhằm hiện thực hóa yêu sách “Tứ Sa”, vi phạm
trắng trợn luật pháp quốc tế, xâm phạm chủ quyền của nước khác ở Biển Đông.
Ở
tầm sâu xa hơn, cần phải chỉ ra rằng giới cầm quyền ở Bắc Kinh hiện đang cố
tình không thừa nhận lịch sử và hành động đi ngược với lịch sử. Chắc chắn là
thâm tâm họ đang “oán trách” các thế hệ “tiền nhân” nhà họ trong quá trình cai
quản đất nước đã không “cố mà giành lấy” chủ quyền ở hai quần đảo Hoàng Sa, Trường
Sa từ trước, đặt tên cho nó, để cho con cháu bây giờ vì tham vọng “bành trướng”
mà phải khổ công “cãi lấy được” và ra sức “viết lại” lịch sử bằng cách đặt tên
cho những thực thể địa lý không được thừa nhận đó. Nhưng họ đâu có biết, lịch sử
là lịch sử, không thể “viết lại” được và nếu làm như vậy là đem “đại bác bắn
vào lịch sử”. Một ngày nào đó, “tên lửa sẽ bắn vào chính họ”. Điều đó sẽ thật
là tai họa cho nước Trung Hoa.
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét