Home » thoisu
Chủ Nhật, 5 tháng 7, 2020
Cạnh tranh chiến lược Mỹ - Trung Quốc tác động đến các nước Đông Nam Á
Kể
từ khi Tổng thống Donald Trump cầm quyền ở Mỹ vào đầu năm 2017 tới nay, quan hệ
Mỹ - Trung Quốc chuyển sang giai đoạn cạnh tranh chiến lược toàn diện và quyết
liệt, thậm chí được nhìn nhận là “chiến tranh lạnh 2.0”. Diễn biến mới này tác
động tới toàn bộ cục diện chính trị, an ninh thế giới, trước hết là khu vực
Đông Nam Á - nơi đã và đang là tâm điểm cạnh tranh giữa các cường quốc.
Cạnh tranh Mỹ - Trung Quốc - “chiến
tranh lạnh 2.0”
Trong
cương lĩnh tranh cử cuối năm 2016, ứng cử viên Donald Trump từng tuyên bố, ông
không thể gọi Trung Quốc bằng một cái tên nào khác là “kẻ thù của nước Mỹ”. Sau
khi đắc cử, Tổng thống Donald Trump phát động chiến dịch cạnh tranh chiến lược
toàn diện với Trung Quốc trên nhiều chiến tuyến.
Trên
chiến tuyến thương mại, tính đến cuối năm 2018, Mỹ đã áp thuế 10% đối với hơn
6.000 sản phẩm nhập khẩu của Trung Quốc, trị giá gần 200 tỷ USD và từ ngày
01/01/2019, nâng mức thuế lên 25%. Sau nhiều cuộc đàm phán căng thẳng, đến cuối
năm 2019, Mỹ và Trung Quốc đã đạt được thỏa thuận thương mại giai đoạn 1.
Theo đó, Trung Quốc cam kết sẽ mua tổng
cộng 200 tỷ USD hàng hóa Mỹ trong 02 năm tới, đổi lại Mỹ sẽ giảm mức thuế 15%
áp lên 120 tỷ USD hàng Trung Quốc từ ngày 01/9/2019 xuống mức 7,5%, còn mức thuế
25% với 250 tỷ USD các mặt hàng khác sẽ vẫn được giữ nguyên. Đồng thời, hạn chế
các hành vi của Trung Quốc được cho là “đánh cắp sở hữu trí tuệ” và ép buộc các
công ty Mỹ chuyển giao công nghệ. Thỏa thuận thương mại giai đoạn 1 là bước khởi
đầu nhằm giảm xung đột giữa hai nền kinh tế lớn nhất, nhì thế giới. Tuy nhiên,
thỏa thuận này không phải là “đình chiến”, càng không phải kết thúc chiến tranh
thương mại Mỹ - Trung Quốc, mà có thể chỉ là “khoảng lặng giữa cơn bão lớn”.
Trên
chiến tuyến cạnh tranh giữa chương trình “Made in China 2025” và chương trình
“Made in America”, thực chất đây là cuộc tranh giành thị trường hàng hóa công
nghệ cao trong điều kiện Cách mạng công nghiệp 4.0. Với chương trình “Made in
China 2025”, Trung Quốc hướng tới mục tiêu trở thành “cường quốc chế tạo” vào
năm 2025 và đến năm 2035 sẽ vượt qua các cường quốc công nghiệp hàng đầu, chiếm
lĩnh vị thế áp đảo trên thị trường công nghệ cao của thế giới. Đến thời điểm kỷ
niệm 100 năm thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (2049), Trung Quốc sẽ
giành vị thế thống trị trên thị trường sản phẩm công nghệ cao toàn cầu. Phía Mỹ
cho rằng, nguy cơ từ chương trình “Made in China 2025” không chỉ đến từ tham vọng
của Trung Quốc sẽ kiểm soát thị trường công nghệ cao của thế giới, mà còn từ việc
Bắc Kinh sử dụng các “thủ đoạn mờ ám” để đạt được mục tiêu đó. Ở chiều ngược lại,
Tổng thống Donald Trump thực hiện chủ trương “Made in America”, nhằm đưa Mỹ
giành lại vị thế cường quốc công nghiệp số 1 thế giới mà họ đã từng có được
trong thế kỷ XX. Đồng thời, đề ra nhiều biện pháp ngăn chặn hoạt động kinh tế
phi thị trường, thậm chí được cho là “phi pháp” của Trung Quốc, như: ngăn chặn
hoạt động tình báo công nghiệp của Trung Quốc; kiểm soát chặt các hợp đồng
Chính phủ Mỹ ký với ZTE và Huawei - hai tập đoàn sản xuất và kinh doanh công
nghệ cao hàng đầu của Trung Quốc, tăng cường giám sát các khoản đầu tư của
Trung Quốc ở Mỹ, v.v.
Bên
cạnh đó, cạnh tranh giữa Sáng kiến “Vành đai và Con đường” của Trung Quốc và
Chiến lược “Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và rộng mở” của Mỹ ngày càng
gia tăng. Mỹ cảnh báo, Sáng kiến “Vành đai và Con đường” đã đưa nhiều quốc gia
lâm vào “bẫy nợ” và phải gán một phần chủ quyền cho Bắc Kinh, điển hình là Sri
Lanka đã phải bàn giao một hải cảng chiến lược cho Trung Quốc vào năm 2017, sau
khi họ không thể trả hết nợ. Đặc biệt, trong Sáng kiến này có dự án “Con đường
tơ lụa trên biển” với điểm khởi đầu đi qua Biển Đông, vì vậy, Bắc Kinh đã liên
tục đưa ra nhiều yêu sách chủ quyền vô lý tại đây, đẩy tình hình tại vùng biển
này không ngừng leo thang căng thẳng. Để cạnh tranh với Sáng kiến “Vành đai và
Con đường” của Trung Quốc, Tổng thống Donald Trump đã điều chỉnh Chiến lược
“xoay trục” tới Châu Á - Thái Bình Dương của người tiền nhiệm thành Chiến lược
“Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và rộng mở”. Theo đó, Washington chủ
trương thành lập liên minh bốn nước, gồm: Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ và Australia, để
hình thành mối liên kết “tứ giác Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương”. Trên cơ sở đó,
thu hút các đối tác trong khu vực tham gia, nhằm đối phó với chính sách cường
quyền trên biển của Trung Quốc. Ngày 05/11/2019, bên lề Hội nghị thượng đỉnh
ASEAN được tổ chức tại Thái Lan, Bộ trưởng Thương mại Mỹ Wilbur Ross chính thức
thông báo về Dự án “Mạng lưới Điểm Xanh”, nhằm thúc đẩy các quốc gia ở khu vực Ấn
Độ Dương - Thái Bình Dương và trên toàn thế giới tham gia xây dựng mạng lưới cơ
sở hạ tầng bền vững, nhằm phát triển kinh tế, đảm bảo an ninh quốc gia và không
rơi vào “bẫy nợ” từ Sáng kiến “Vành đai và Con đường” của Trung Quốc.
Theo
các chuyên gia, bao trùm sự cạnh tranh chiến lược Mỹ - Trung Quốc là cuộc đối đầu
không khoan nhượng giữa mô hình kinh tế thị trường tự do của Mỹ với mô hình
kinh tế do nhà nước kiểm soát của Trung Quốc. Trong bối cảnh đại dịch Covid-19
xuất phát từ Trung Quốc dẫn tới cuộc khủng hoảng nghiêm trọng chưa từng có trên
thế giới trong vòng 100 năm qua, Mỹ và Trung Quốc đều cáo buộc lẫn nhau gây ra
đại dịch này, đẩy sự cạnh tranh giữa hai nước leo thang, rất có thể trở thành
“chiến tranh lạnh 2.0”, tiềm ẩn hiểm họa lớn hơn rất nhiều so với chiến tranh lạnh
giữa Mỹ và Liên Xô trước đây.
Cơ hội và thách thức đối với các nước
Đông Nam Á
Chiến
tranh thương mại Mỹ - Trung Quốc tạo ra cả cơ hội và thách thức đối với các nước
Đông Nam Á. Từ phía Mỹ, sau khi áp thuế đối với hàng hóa xuất khẩu của Trung Quốc,
họ sẽ tìm các nguồn nhập khẩu từ các thị trường khác thay thế, trong đó có các
quốc gia Đông Nam Á. Các mặt hàng Mỹ cần nhập khẩu rất đa dạng, từ các sản phẩm
công nghiệp công nghệ cao tới các mặt hàng nông, lâm, thủy sản có chất lượng
khá tương đồng với hàng nhập khẩu từ Trung Quốc. Ngược lại, khi Bắc Kinh đáp trả
bằng việc áp thuế đối với hàng hóa nhập khẩu từ Mỹ, trước hết là các mặt hàng
nông sản và thủy sản, Trung Quốc sẽ gia tăng nhập khẩu các mặt hàng này từ các
nước Đông Nam Á. Trên thực tế, thị trường tiêu dùng của Trung Quốc rất ưa chuộng
các mặt hàng nông, lâm, thủy sản của các nước Đông Nam Á. Vì vậy, những năm tới,
nhiều khả năng Trung Quốc sẽ gia tăng nhập khẩu nhiều hơn nữa các mặt hàng này.
Theo dự báo, với Chương trình “Made in China 2025”, Trung Quốc sẽ trở thành nền
kinh tế số 1 thế giới với tầng lớp trung lưu khoảng gần 500 triệu người có nhu
cầu tiêu dùng ngang với mức tiêu dùng của người Mỹ. Khi đó, Trung Quốc sẽ là thị
trường tiêu dùng với nhu cầu lớn nhất thế giới. Đây là cơ hội lịch sử để các quốc
gia Đông Nam Á có thể xuất khẩu hàng tiêu dùng, trước hết là lương thực, thực
phẩm sang Trung Quốc. Trong bối cảnh này, thách thức lớn nhất đối với các nước
Đông Nam Á là phải nhanh chóng tổ chức lại các dây chuyền sản xuất và dịch vụ để
đáp ứng tiêu chuẩn ngày càng cao của Trung Quốc.
Điều
bất ngờ nhất hiện nay là, đại dịch Covid-19 xuất hiện đã làm tê liệt hàng loạt
chuỗi cung ứng toàn cầu, đặt Mỹ và nhiều quốc gia khác đứng trước một thực tế
phũ phàng là toàn bộ lợi ích mà họ thu được từ hoạt động giao dịch với Trung Quốc
từ trước tới nay chỉ là “muối bỏ biển” so với những thiệt hại kinh tế khủng khiếp
do đại dịch này gây ra. Do đó, Mỹ cùng với nhiều nước đang đẩy nhanh quá trình
dịch chuyển các công ty sản xuất và kinh doanh ở Trung Quốc về nước hoặc tới một
số quốc gia đối tác an toàn và tin cậy hơn, không có tham vọng cạnh tranh với Mỹ,
trước hết là các nước Đông Nam Á. Đây chính là cơ hội lịch sử để Đông Nam Á có
thể trở thành “công xưởng của thế giới”. Tuy nhiên, xu hướng này cũng đặt ra
thách thức rất lớn đối với các nước Đông Nam Á, bởi họ sẽ phải nỗ lực vượt bậc
để tái cấu trúc nền kinh tế, cải thiện thể chế quản lý, đẩy mạnh xây dựng, hoàn
thiện cơ sở hạ tầng, đáp ứng các tiêu chuẩn rất cao về chất lượng sản phẩm và
quản lý cũng như tăng cường vượt bậc hoạt động đào tạo nguồn nhân lực chất lượng
cao. Hơn nữa, quá trình này phải được hoàn tất trong một thời gian ngắn để
không bỏ lỡ “thời cơ lịch sử” đang tới.
Trong
sự cạnh tranh chiến lược giữa Sáng kiến “Vành đai và Con đường” của Trung Quốc
với Chiến lược “Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và rộng mở” của Mỹ, các nước
Đông Nam Á đứng trước cả cơ hội và thách thức. Về cơ hội, các nước trong khu vực
có được khả năng lựa chọn các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng của cả Trung Quốc và
Mỹ, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của mình. Tuy nhiên,
thách thức lớn nhất trong tuyến cạnh tranh này là quốc gia nào ở Đông Nam Á quyết
định tham gia Sáng kiến “Vành đai và Con đường” sẽ đều có thể phải đối mặt với
nguy cơ rơi vào “bẫy nợ” của Trung Quốc giống như một số nước trên thế giới đã
và đang gặp phải, hoặc phải đối mặt với toan tính của Bắc Kinh muốn độc chiếm
Biển Đông. Đây là thách thức lớn đặt ra đối với các nước Đông Nam Á trước tham
vọng ngày càng gia tăng của Trung Quốc. Do đó, các nước Đông Nam Á, nhất là các
nước có tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc cần tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng
quốc tế đối với cơ chế đa phương trong việc giải quyết tranh chấp chủ quyền ở
Biển Đông, bởi vùng biển này liên quan tới lợi ích không chỉ của khu vực, mà
còn của gần như cả thế giới. Trong quá trình xúc tiến các cuộc đàm phán để sớm
ký kết Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) có tính ràng buộc cao về pháp lý,
các nước Đông Nam Á đang phải đối mặt với thách thức xuất phát từ toan tính của
Bắc Kinh chia rẽ, lôi kéo, thậm chí gây sức ép, buộc họ chấp nhận các nội dung
do Trung Quốc áp đặt.
Chúng
ta còn nhớ, tháng 6/2019, Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 34 diễn ra tại Băng Cốc,
Thái Lan đã thông qua tuyên bố “Tầm nhìn của ASEAN về Ấn Độ Dương - Thái Bình
Dương”. Trong đó, khẳng định vai trò trung tâm của ASEAN trong cấu trúc chung của
khu vực hướng tới mục tiêu bảo đảm hòa bình, an ninh và ổn định ở Đông Nam Á và
lập trường không đứng về bất kỳ cường quốc nào trong tranh giành ảnh hưởng ở
khu vực Đông Nam Á - một khu vực có vị thế chiến lược rất lớn, nằm trên tuyến
đường thương mại sầm uất bậc nhất thế giới, kết nối giữa Thái Bình Dương và Ấn
Độ Dương, hướng tới Ấn Độ, châu Âu, châu Phi, Trung Đông và châu Mỹ Latinh.
Theo các chuyên gia, đây là một quyết định sáng suốt, thể hiện sự đoàn kết của
cộng đồng ASEAN; đồng thời, nâng cao vị trí, vai trò của các nước Đông Nam Á
trong việc tranh thủ thời cơ và ứng phó tốt hơn, hiệu quả hơn với các thách thức
do cuộc cạnh tranh Mỹ - Trung Quốc tạo ra tại khu vực.
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét