Home » biendao
Thứ Bảy, 25 tháng 7, 2020
Nhìn lại khía cạnh pháp lý nhân dịp 4 năm Tòa Trọng tài vụ kiện Biển Đông ra Phán quyết
Nhân
4 năm Tòa Trọng tài vụ kiện Biển Đông do Philippines khởi kiện Trung Quốc ra
phán quyết, chúng ta cùng nhìn lại khía cạnh pháp lý của vấn đề này:
UNCLOS
đã xác định rõ ràng 4 tòa án có thẩm quyền xét xử các tranh chấp trong khuôn
khổ công ước: Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ); Tòa án Quốc tế về Luật Biển
(ITLOS); một Tòa Trọng tài Thường trực được thành lập theo một trong các phụ
lục của UNCLOS và một Tòa Trọng tài đặc biệt để giải quyết một số loại tranh
chấp được đặc biệt xác định (Điều 287 UNCLOS).
Tất
cả các cơ chế Tòa án nói trên đều được xem như là bình đẳng với nhau về thẩm
quyền pháp lý để xem xét và xét xử các tranh chấp theo tinh thần UNCLOS. Mỗi
nước tham gia UNCLOS đều có quyền chọn một trong ba cơ quan tư pháp đầu tiên
để giải quyết tranh chấp với các quốc gia khác liên quan đến việc giải thích hoặc
áp dụng UNCLOS. Nếu không tuyên bố chọn một cơ chế cụ thể nào để xét xử
các tranh chấp, thì quốc gia thành viên đó mặc nhiên được coi là đã chấp nhận
cơ chế trọng tài, phù hợp với phụ lục của UNCLOS.
Do
việc Trung Quốc chưa bao giờ ra tuyên bố chọn một cơ chế xét xử, vì vậy
cơ quan tư pháp hợp pháp và chính đáng duy nhất để xem xét vụ kiện do
Philippines đưa ra theo UNCLOS là một Tòa Trọng tài. Tuy nhiên, trong cuộc họp
báo tại Bắc Kinh vào tháng 7/2016 sau khi Tòa Trọng tài Thường trực La
Haye ra phán quyết về Biển Đông, Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Lưu
Chấn Dân (Liu Zhenmin) ngang nhiên tuyên bố rằng Tòa Trọng tài không phải là
một “Tòa án quốc tế”.
Phát
biểu của ông Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc chỉ là một sự ngụy biện. Vấn
đề không phải là Tòa Trọng tài có phải là một Tòa án quốc tế hay không, mà
là UNCLOS quy định rằng Tòa Trọng tài là một cơ chế pháp lý hợp pháp, có
giá trị và thẩm quyền ngang hàng với ITLOS và ICJ để xét xử các tranh chấp
phát sinh trong các trường hợp liên quan đến việc giải thích và áp dụng Công ước.
Trung Quốc là một thành viên của UNCLOS thì phải có trách nhiệm tuân thủ các
quy định của Công ước.
Theo
luật pháp quốc tế, các cơ quan tư pháp có thẩm quyền tự xác định xem họ có thẩm
quyền tài phán đối với các tranh chấp được đưa ra để nhờ họ phân xử hay
không. Đối với các tranh chấp trong khuôn khổ UNCLOS, Điều 288 của UNCLOS quy
định cụ thể: “Trong trường hợp có tranh cãi về việc Tòa án hay Tòa Trọng tài
có thẩm quyền xét xử hay không, vấn đề sẽ được giải quyết theo quyết định của
Tòa án hoặc Tòa Trọng tài”.
Trong
vụ kiện Biển Đông do Philippines khởi xướng, Trung Quốc kiên quyết phủ nhận thẩm
quyền của Tòa Trọng tài và sau khi Tòa Trọng tài ra phán quyết cuối cùng hôm
12/7/2016, bác bỏ hoàn toàn yêu sách “đường lưỡi bò” của Trung Quốc ở Biển
Đông, Bắc Kinh đã tấn công cơ chế pháp lý này trong Tuyên bố của Bộ
Ngoại giao Trung Quốc ngày 12/07/2016 khi họ ngang nhiên cho rằng hành
động và phán quyết của Tòa Trọng tài vừa “bất công” vừa “bất hợp pháp”
và “sai lệch hoàn toàn với mục tiêu và mục đích của UNCLOS…, phá hoại
đáng kể tính toàn vẹn và thẩm quyền của UNCLOS, vi phạm nghiêm trọng các quyền
hợp pháp của Trung Quốc trong tư cách một quốc gia có chủ quyền và là thành
viên của UNCLOS…”.
Có
lý nào mà một quốc gia thành viên UNCLOS lại tự cho phép mình coi thường
quyền hạn của một Tòa án có thẩm quyền được ghi rõ trong các điều khoản của
UNCLOS mang tính ràng buộc về mặt pháp lý đối với các thành viên? Khi làm
như vậy, Trung Quốc không chỉ tước bỏ quyền được đối xử công bằng mà
cả cơ hội tìm kiếm công lý của tất cả các nước khác trong UNCLOS, những
nước cho rằng quyền và lợi ích của họ đã bị Trung Quốc vi phạm.
Dù
tham gia hay không tham gia vụ kiện, các bên liên quan vụ kiện Biển Đông có
nghĩa vụ pháp lý phải tuân thủ mọi quyết định của Tòa Trọng tài, từ các quyết
định về thẩm quyền tài phán cho đến các phán quyết về nội dung của vụ kiện.
Điều 296 UNCLOS quy định: “Bất kỳ quyết định nào do một Tòa án hoặc Tòa Trọng
tài có thẩm quyền theo mục này đưa ra đều là quyết định tối hậu mà tất cả
các bên tranh chấp phải tuân thủ. Điều khoản này nhấn mạnh “bất kỳ quyết định
nào” và tất cả những quyết định đó đều là quyết định “tối hậu”, tức là
không có quyền kháng cáo, và áp dụng cho bất kỳ quyết định nào của một Tòa
án hoặc Tòa Trọng tài “có thẩm quyền xét xử theo mục này”. Theo đó, mọi quyết
định của Tòa Trọng tài vụ kiện Biển Đông, bao gồm cả phán quyết hôm
12/7/2016 là cuối cùng và ràng buộc đối với các bên (nguyên đơn hay bị đơn)
trong vụ kiện.
Như
vậy, trên bình diện luật pháp quốc tế, Trung Quốc bắt buộc phải tuân thủ các
quyết định của Tòa Trọng tài Thường trực La Haye. Thế nhưng, ngay sau khi
Tòa Trọng tài ban hành phán quyết dài 501 trang về vụ kiện Biển Đông,
Trung Quốc lại tuyên bố rằng phán quyết “không có giá trị và vô hiệu” và không
có tính ràng buộc. Lời khẳng định đó đã trái ngược hẳn với các nghĩa vụ
pháp lý của Bắc Kinh trong khuôn khổ UNCLOS.
Nhìn
lại cách hành xử của Trung Quốc ở Biển Đông và thái độ của họ đối với quá trình
thành lập Tòa Trọng tài vụ kiện Biển Đông, đối với vấn đề thẩm quyền của Tòa
cũng như đối với phán quyết 12/7/2016 của Tòa Trọng tài có thể thấy rõ sự coi
thường luật pháp quốc tế của giới cầm quyền Bắc Kinh. Họ đã không chỉ không thực
hiện những nghĩa vụ của một quốc gia vừa là thành viên UNCLOS, vừa là Ủy viên
thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc mà đang tiếp tục có những hành động
gây hấn ngày càng leo thang ở Biển Đông vi phạm nghiêm trọng các quy định của
UNCLOS.
Trong
4 năm qua, giới cầm quyền Bắc Kinh luôn tìm mọi cách để “vô hiệu hóa” phán quyết
của Tòa Trọng tài nhưng họ không thể làm mất đi tinh thần bất diệt của phán quyết.
Phán quyết 12/7/2016 của Tòa Trọng tài sẽ tồn tại mãi mãi và trở thành một bộ
phận của luật pháp quốc tế, là sự phát triển mới cụ thể hóa các nội dung của
UNCLOS đối với tình hình thực tế ở Biển Đông.
Ngày
càng có nhiều tiếng nói công khai, chính thức ủng hộ và đánh giá cao giá trị của
phán quyết thể hiện qua việc thời gian gần đây, nhiều nước trong khu vực
(Indonesia, Singapore, Việt Nam, Malaysia) đã đề cập đến nội dung phán quyết dưới
các hình thức khác nhau, thậm chí tinh thần chính của phán quyết đã được nêu ra
một cách gián tiếp trong Tuyên bố của Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần thứ 36 vừa
diễn ra hôm 26/6/2020. Đặc biệt, việc Mỹ - nước không liên quan trực tiếp đến
tranh chấp Biển Đông đã nêu rõ phán quyết 12/7/2016 của Tòa Trọng tài trong một
văn bản chính thức gửi lên Liên hợp quốc phản đối yêu sách và hành động của
Trung Quốc ở Biển Đông hôm 01/6/2020 có ý nghĩa quan trọng thúc đẩy việc phát
huy vai trò của phán quyết trong giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông.
![](http://4.bp.blogspot.com/-JE_IPFlB95A/T2xOXxddz4I/AAAAAAAAA2I/sYgUF3LxUdw/s1600/tinkhac.jpg)
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét