70 năm quan hệ Việt Nam-Trung Quốc: Hữu nghị, hợp tác là dòng chảy chính (phần 1)
Năm 2020 có ý nghĩa quan trọng trong
quan hệ hữu nghị truyền thống Việt Nam - Trung Quốc. Mùa xuân Canh Tý năm nay,
cùng với việc chào đón năm mới 2020, nhân dân hai nước Việt - Trung vui mừng và
phấn khởi kỷ niệm 70 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước, cùng
nhau ôn lại chặng đường 70 mùa xuân của mối quan hệ láng giềng hữu nghị do Chủ
tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Mao Trạch Đông cùng các vị tiền bối cách mạng hai
nước dày công xây dựng và vun đắp.
Cách đây vừa tròn 70 năm, ngày 18/1/1950
đã đi vào lịch sử quan hệ Việt Nam - Trung Quốc như một mốc son quan trọng. Sau
khi được thành lập không lâu, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là quốc gia đầu
tiên trên thế giới thiết lập quan hệ ngoại giao với nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Trong chặng đường 70 năm
phát triển, hai Đảng, hai nước và nhân dân hai nước đã kề vai sát cánh, dành
cho nhau sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn và quý báu, góp phần vào thành công của sự
nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở mỗi nước. Đảng,
Nhà nước Việt Nam đánh giá cao và không bao giờ quên điều đó.
70 năm qua, quan hệ Việt - Trung tuy có
lúc thăng trầm, nhưng hữu nghị, hợp tác vẫn là dòng chảy chính, tình hữu nghị
do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Mao Trạch Đông cùng các thế hệ lãnh đạo hai
nước dày công vun đắp đã trở thành tài sản chung quý báu của hai dân tộc, góp
phần duy trì xu thế phát triển ổn định quan hệ hữu nghị truyền thống Việt -
Trung, mang lại lợi ích thiết thực cho nhân dân hai nước.
Đặc biệt, kể từ khi bình thường hóa năm
1991 đến nay, quan hệ Việt - Trung đã phát triển sâu rộng trên tất cả các lĩnh
vực, từ chính trị, kinh tế đến văn hóa, an ninh, quốc phòng. Giao lưu và tiếp
xúc cấp cao được duy trì thường xuyên bằng nhiều hình thức linh hoạt. Qua các
chuyến thăm và tiếp xúc, Lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước đã đạt nhiều nhận
thức chung quan trọng, góp phần củng cố và tăng cường tin cậy chính trị, thúc đẩy
hợp tác toàn diện trên các lĩnh vực, là định hướng chiến lược nền tảng, lâu dài
cho sự phát triển lành mạnh, ổn định của quan hệ Việt - Trung. Hai bên đã xác định
phát triển quan hệ hai nước theo phương châm “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn
diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” (năm 1999) và tinh thần “láng giềng
tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt” (năm 2005). Năm 2008, hai bên nhất
trí thiết lập khuôn khổ quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam -
Trung Quốc, đây là khung hợp tác cao nhất, nội hàm sâu rộng nhất trong quan hệ
của Việt Nam với các nước trên thế giới, Trung Quốc cũng là quốc gia đầu tiên
cùng Việt Nam xây dựng khuôn khổ hợp tác này.
Với sự nỗ lực chung của hai bên, quan hệ
đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt - Trung những năm qua duy trì đà phát
triển ổn định và đạt được nhiều tiến triển mới. Tính đến nay, Việt Nam và Trung
Quốc đã thiết lập được gần 60 cơ chế giao lưu, hợp tác từ Trung ương tới địa
phương liên quan đến gần như tất cả các lĩnh vực, phát huy vai trò quan trọng
trong việc thúc đẩy quan hệ hợp tác hữu nghị giữa các bộ, ngành, địa phương hai
nước.
Hợp tác giữa hai Đảng được đẩy mạnh, góp
phần quan trọng vào việc xây dựng quan hệ tin cậy giữa hai nước. Hai bên duy
trì trao đổi đoàn và thiết lập cơ chế giao lưu, hợp tác thường xuyên giữa các
Ban Đảng, nhất là trong lĩnh vực đào tạo cán bộ, xây dựng Đảng…; tổ chức thành
công Cơ chế gặp gỡ cấp cao hai Đảng và Hội thảo lý luận để trao đổi về kinh
nghiệm xây dựng Đảng, quản lý nhà nước, đổi mới, cải cách mở cửa và hội nhập quốc
tế; ký kết và triển khai hiệu quả Kế hoạch hợp tác giữa hai Đảng, Thỏa thuận hợp
tác đào tạo cán bộ cấp cao giữa hai Đảng.
Giao lưu, hợp tác giữa Quốc hội Việt Nam
với Nhân Đại Trung Quốc, giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với Chính hiệp Trung Quốc
và giữa các Bộ, ngành như ngoại giao, quốc phòng, công an không ngừng được tăng
cường. Đến nay, hai bên đã phối hợp tổ chức thành công 11 kỳ Ủy ban chỉ đạo hợp
tác song phương cũng như triển khai tốt hoạt động Giao lưu hữu nghị quốc
phòng biên giới Việt - Trung, Đối thoại An ninh chiến lược, Đối thoại Chiến
lược Quốc phòng; duy trì cử tàu Hải quân thăm lẫn nhau, tuần tra chung trên bộ
và Vịnh Bắc Bộ, kiểm tra liên hợp nghề cá giữa Cảnh sát biển Việt Nam và Tổng đội
Ngư chính Trung Quốc, giao lưu sỹ quan trẻ…
Hợp tác giữa các địa phương Việt Nam với
các tỉnh, thành Trung Quốc, đặc biệt là Quảng Tây, Vân Nam, Quảng Đông… diễn ra
sôi động, đạt nhiều thành quả thiết thực. Tính đến nay, đã có gần 50 tỉnh/thành
của Việt Nam thiết lập quan hệ hợp tác hữu nghị với các tỉnh/thành/khu tự trị của
Trung Quốc. Các cơ chế, chương trình giao lưu hợp tác giữa địa phương hai nước
được tổ chức thường xuyên như: Gặp gỡ đầu Xuân giữa Bí thư 4 tỉnh Quảng Ninh, Lạng
Sơn, Cao Bằng, Hà Giang của Việt Nam với Bí thư Khu ủy khu tự trị dân tộc
Choang Quảng Tây, Trung Quốc và Ủy ban công tác liên hợp giữa 4 tỉnh này với Quảng
Tây; Hội nghị kiểm điểm tình hình hợp tác giữa các bộ/ngành, địa phương Việt
Nam với tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc; Nhóm công tác liên hợp giữa các tỉnh Hà
Giang, Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên và tỉnh Vân Nam, Trung Quốc; Hợp tác Hành
lang kinh tế giữa 5 tỉnh/thành phố Lào Cai, Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh với tỉnh
Vân Nam, Trung Quốc. Qua các phiên họp, hai bên đã đi sâu trao đổi về các biện
pháp nhằm tăng cường sự hiểu biết và tin cậy lẫn nhau, thúc đẩy hợp tác thực chất
trên các lĩnh vực, giải quyết các khó khăn, vướng mắc trong quá trình hợp tác,
cùng xây dựng đường biên giới hoà bình, ổn định, hữu nghị, đóng góp cho quan hệ
đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Trung Quốc phát triển ổn định,
lành mạnh.
Giao lưu, trao đổi giữa các đoàn thể quần
chúng ngày càng mở rộng, góp phần tăng cường tin cậy, thúc đẩy hợp tác cùng có
lợi, tạo cơ sở vững chắc cho quan hệ hai nước. Hai bên đã phối hợp tổ chức nhiều
hoạt động phong phú như Diễn đàn nhân dân, Liên hoan hữu nghị nhân dân, Liên
hoan nhân dân biên giới, Gặp gỡ hữu nghị thanh niên, Liên hoan thanh niên...
Quan hệ kinh tế, thương mại, đầu tư,
khoa học - công nghệ, văn hóa, giáo dục, du lịch… phát triển sâu rộng, đi vào
thực chất. Tháng 11/2017, hai nước đã ký Bản ghi nhớ hợp tác về kết nối giữa
khuôn khổ “Hai hành lang, một vành đai” với sáng kiến “Vành đai và Con đường”.
Kể từ năm 2004, Trung Quốc đã trở thành đối tác thương mại lớn nhất của Việt
Nam. Đến nay, Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất và thị trường xuất khẩu
lớn thứ 2 của Việt Nam, trong khi Việt Nam là đối tác thương mại lớn nhất của
Trung Quốc trong ASEAN, đối tác thương mại lớn thứ 8, thị trường xuất khẩu lớn
thứ 5 và là thị trường nhập khẩu lớn thứ 9 của Trung Quốc trên thế giới. Năm
2018, kim ngạch thương mại song phương Việt Nam - Trung Quốc đạt 106,7 tỷ USD,
tăng hơn 3.300 lần so với năm 1991. Trong 11 tháng đầu năm 2019, tổng kim ngạch
xuất nhập khẩu Việt Nam - Trung Quốc đạt 105,75 tỷ USD, tăng 8,71% so với cùng
kỳ 2018. Tính đến hết tháng 11/2019, Trung Quốc có 2.739 dự án đầu tư trực tiếp
vào Việt Nam, tổng số vốn 16,1 tỷ USD, đứng thứ 7/132 quốc gia và vùng lãnh thổ
đầu tư tại Việt Nam. Các khoản tín dụng ưu đãi dài hạn và viện trợ không hoàn lại
của Chính phủ Trung Quốc dành cho Việt Nam cũng góp phần quan trọng đối với sự
phát triển kinh tế xã hội của nhiều địa phương Việt Nam. Hàng năm có khoảng 5
triệu lượt du khách Trung Quốc đi Việt Nam. Hiện nay có khoảng 11.000 học sinh
Việt Nam đang học tập tại các trường đại học ở Trung Quốc và khoảng 2.000 học
sinh Trung Quốc đang học tập tại Việt Nam.
![](http://4.bp.blogspot.com/-JE_IPFlB95A/T2xOXxddz4I/AAAAAAAAA2I/sYgUF3LxUdw/s1600/tinkhac.jpg)
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét