Việt Nam tăng cường hợp tác quốc tế về biển
Trong những năm qua, Công ước của Liên hợp
quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS) đã trở thành căn cứ pháp lý quốc tế vững chắc để
xác định quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm của quốc gia ven biển đồng thời, đây là
cơ sở để xử lý các vấn đề liên quan đến biển và đại dương, bao gồm những tranh
chấp về biển.
Là quốc gia gắn liền với biển, là thành
viên có trách nhiệm của UNCLOS, Việt Nam luôn đề cao mục tiêu, tôn chỉ và các
quy định của UNCLOS, nỗ lực triển khai các biện pháp để thực thi UNCLOS; đồng
thời kiên trì, kiên quyết yêu cầu và kêu gọi các quốc gia khác tuân thủ các
nghĩa vụ của UNCLOS.
Qua đó, Việt Nam đóng góp vào bảo vệ trật
tự pháp lý trên biển, xây dựng Biển Đông trở thành vùng biển hòa bình và mang lại
thịnh vượng cho tất cả các quốc gia trong khu vực.
Việt Nam tham gia và có những đóng góp
tích cực
Kể từ khi trở thành thành viên UNCLOS
vào năm 1994, Việt Nam đã tích cực hoạt động tại các cơ chế được thành lập theo
UNCLOS. Hàng năm, Việt Nam tích cực tham gia thảo luận cùng với các nước về Nghị
quyết của Đại hội đồng Liên hợp quốc về “Đại dương và Luật Biển;” tham gia tiến
trình tư vấn không chính thức của Đại Hội đồng Liên hợp quốc về đại dương và Luật
biển.
Là thành viên Hội đồng Cơ quan quyền lực
quốc tế đáy đại dương (ISA) của hai nhiệm kỳ (2007-2011) và (2011-2014), Việt
Nam đã có những đóng góp trong xây dựng các văn kiện của ISA.
Bên cạnh đó, Việt Nam còn tham dự, chia
sẻ thông tin và lập trường về tình hình Biển Đông tại các Hội nghị thường niên các
quốc gia thành viên UNCLOS, ủng hộ hoạt động của Ủy ban Ranh giới thềm lục địa
(CLCS), tham gia tích cực vào hoạt động của Nhóm Công tác về bảo tồn và sử dụng
bền vững đa dạng sinh học biển tại các vùng biển nằm ngoài quyền tài phán quốc
gia (BBNJ), trong đó có tiến trình đàm phán xây dựng văn kiện pháp lý về BBNJ
trong khuôn khổ UNCLOS; đề cao vai trò của Tòa án Luật biển quốc tế (ITLOS)
trong việc bảo vệ các quy định của UNCLOS; đồng thời đóng góp đầy đủ niên liễm
cho hoạt động của các cơ quan được thành lập theo UNCLOS.
Tại các diễn đàn quốc tế liên quan, Việt
Nam luôn kêu gọi các quốc gia phải tuân thủ các quy định của UNCLOS, sử dụng biển
một cách hòa bình, tôn trọng quyền và lợi ích chính đáng của các quốc gia khác ở
trong và ngoài khu vực.
Tăng
cường hợp tác quốc tế về biển
Việt Nam đề cao hợp tác quốc tế về biển,
đặt vấn đề này trong tổng thể chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội
nhập quốc tế và khu vực, phù hợp với phương châm “chủ động tăng cường và mở rộng
quan hệ đối ngoại, hợp tác quốc tế về biển” như nêu tại Nghị quyết số 36-NQ/TW
của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII năm 2018.
Việt Nam luôn tích cực phát triển quan hệ
với các quốc gia trên thế giới, theo đó không ngừng mở rộng, tăng cường hợp tác
quốc tế về biển.
Việc tăng cường hợp tác quốc tế về biển
nhằm mục đích khai thác tối đa các tiềm năng mà biển đem lại cũng như để giải
quyết, xử lý các thách thức đặt ra nhằm tạo dựng môi trường hòa bình, ổn định tại
Biển Đông, phục vụ công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Việt Nam luôn tích cực phát triển quan hệ
với các quốc gia trên thế giới, theo đó không ngừng mở rộng, tăng cường hợp tác
quốc tế về biển.
Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại
giao với 189 quốc gia, trong đó đã thiết lập 3 quan hệ đối tác chiến lược toàn
diện, 13 quan hệ đối tác chiến lược và 12 quan hệ đối tác toàn diện. Trong đó,
đáng chú ý là quan hệ đối tác với nhiều nước bao gồm các lĩnh vực khác nhau
liên quan đến biển, tạo cơ sở tốt cho việc hợp tác cũng như tận dụng sự hỗ trợ
để phát triển kinh tế, khoa học-công nghệ và bảo vệ môi trường biển.
Hình thức hợp tác quốc tế về biển đa dạng,
thông qua việc tham gia các điều ước quốc tế về biển (28 điều ước quốc tế song
phương và 29 điều ước quốc tế đa phương), trong đó gồm các điều ước quốc tế đa
phương như Công ước của Tổ chức vệ tinh hàng hải ngày 3/9/1976, Công ước về tạo
thuận lợi trong giao thông hàng hải quốc tế ngày 9/4/1965, Công ước quốc tế về
mạn khô tàu biển ngày 5/4/1966, Công ước quốc tế về ngăn ngừa ô nhiễm do tàu
gây ra ngày 2/11/1973 và Nghị định thư bổ sung ngày 17/2/1978, Công ước quốc tế
về tìm kiếm và cứu nạn hàng hải ngày 27/4/1979, Công ước về ngăn chặn các hành
vi trái pháp luật chống lại an toàn hành trình hàng hải ngày 10/3/1988 và Nghị
định thư về ngăn chặn các hành vi trái pháp luật chống lại an toàn của những
giàn khoan cố định ở thềm lục địa ngày 10/3/1988…
Các điều ước quốc tế khu vực gồm Hiệp định
khung ASEAN về tạo điều kiện thuận lợi cho vận tải hàng hóa quá cảnh ngày
16/12/1998, Hiệp định hợp tác khu vực về chống cướp biển và cướp có vũ trang chống
lại tàu thuyền tại châu Á ngày 4/5/2006, Bản ghi nhớ giữa ASEAN và Trung Quốc về
cơ chế tham vấn hàng hải ngày 12/11/2010, Hiệp định khung ASEAN về tạo điều kiện
cho vận tải liên quốc gia 26/3/2012, Thỏa thuận cơ chế hợp tác ASEAN về phòng
ngừa và xử lý sự cố tràn dầu ngày 28/11/2014; các điều ước quốc tế song phương
như Thỏa thuận với Philippines về hợp tác trong lĩnh vực ứng phó sự cố tràn dầu
ngày 26/10/2010, Thỏa thuận hợp tác biển và nghề cá với Myanmar năm 2010, Hiệp
định với Chính phủ Liên bang Nga về hợp tác nghề cá ký ngày 16/6/1994…
Nổi bật nhất, tại Liên hợp quốc, Việt
Nam đã tham gia và thông qua các Mục tiêu Phát triển bền vững (SDGs) trong đó
có mục tiêu số 14 về bảo tồn và sử dụng bền vững biển và đại dương.
Việt Nam cũng tích cực hợp tác với các
quốc gia có tiềm lực mạnh về biển như Pháp, Nga, Hàn Quốc, Nhật Bản… nhằm tranh
thủ kinh nghiệm, khoa học-công nghệ và nguồn viện trợ của các nước để xây dựng
các dự án hợp tác trong lĩnh vực quản lý tổng hợp biển và hải đảo như trắc địa
và bản đồ biển, nghiên cứu địa chất, khoáng sản biển, quản lý bền vững vùng biển
và vùng bờ tại Việt Nam…
Việt Nam chủ động, tích cực tham gia các
tổ chức quốc tế, hội nghị quốc tế liên quan đến biển như Tổ chức Hàng hải quốc
tế (IMO), Tổ chức Thủy đạc quốc tế (IHO), Ủy ban Hải dương học Liên chính phủ
(IOC), Ủy ban Nghề cá Tây Trung Thái Bình Dương (WCPFC), Nhóm Công tác về Đại
dương và Nghề cá (OWFG) Tổ chức đối tác về quản lý môi trường các biển Đông Á
(PEMSEA), Chương trình Rừng ngập mặn cho tương lai (MFF), Quỹ Khí hậu xanh
(GCF), Quỹ Môi trường toàn cầu/Chương trình phát triển của Liên hợp quốc (UNDP),
Cơ quan điều phối các biển Đông Á (COBSEA), Trung tâm Nghiên cứu bảo tồn sinh vật
biển và phát triển cộng đồng (MCD).
Trong ASEAN, Việt Nam tham gia Diễn đàn
Biển ASEAN, Diễn đàn Biển ASEAN mở rộng, Nhóm Công tác Nghề cá ASEAN, Tiểu ban
Khoa học và công nghệ biển thuộc Ủy ban Khoa học và Công nghệ ASEAN (ASEAN -
COST)…
Ngoài ra, Việt Nam cũng tích cực tổ chức,
tham gia các hội nghị, hội thảo khoa học quốc tế, các diễn đàn liên quan đến biển
và đại dương như bảo vệ môi trường biển, hợp tác khoa học công nghệ, đào tạo
nhân lực, xây dựng năng lực…
Nổi bật nhất, tại Liên hợp quốc, Việt
Nam đã tham gia và thông qua các Mục tiêu Phát triển bền vững (SDGs) trong đó
có mục tiêu số 14 về bảo tồn và sử dụng bền vững biển và đại dương. Việt Nam
cũng đã đưa ra sáng kiến về thành lập Diễn đàn hợp tác mở rộng giữa các nước G7
và các quốc gia ven biển về ứng phó biến đối khí hậu, nước biển dâng và bảo vệ
môi trường sinh thái biển.
Hợp
tác quốc tế đi vào chiều sâu và phong phú
Nội dung hợp tác quốc tế ngày càng đi
vào chiều sâu và phong phú, trải rộng từ khai thác tài nguyên biển và kinh tế
biển như dầu khí, thủy sản, du lịch biển, đảo, vận tải biển, khai thác cảng biển
đến bảo tồn tài nguyên, môi trường biển, điều tra cơ bản tài nguyên, môi trường
biển, phát triển khoa học-công nghệ biển, thu hút nguồn vốn ODA và các nguồn vốn
khác đầu tư về cơ sở hạ tầng, các công trình phòng chống thiên tai cho các xã
vùng ven biển, tăng cường năng lực phòng tránh thiên tai, ứng phó có hiệu quả với
biến đổi khí hậu…
Cụ thể, về lĩnh vực thủy sản, Việt Nam
tích cực hợp tác với các nước trong lĩnh vực này, đặc biệt là về chống khai
thác IUU. Việt Nam đã ký kết 4 điều ước quốc tế và 17 thỏa thuận quốc tế về các
lĩnh vực liên quan đến nghề cá và hợp tác trên biển với các nước trong và ngoài
khu vực như Malaysia, Myanmar, Indonesia, Ai Cập, Liên bang Nga…
Nhằm kịp thời thông báo các thông tin về
hoạt động của tàu cá và ngư dân trên biển, các thỏa thuận về thiết lập đường
dây nóng trong các hoạt động nghề cá cũng đã được ký kết trong đó gồm thỏa thuận
ký với Australia về chống IUU, khai thông đường dây nóng Việt Nam-Philippines
vào năm 2015, thiết lập đường dây nóng với Trung Quốc năm 2013 về các vụ việc
phát sinh đột xuất của hoạt động nghề cá trên biển
Ngoài ra, các địa phương của Việt Nam
cũng đã hợp tác, triển khai dự án với các đối tác nước ngoài nhằm nâng cao khả
năng, chất lượng khai thác, nuôi trồng, thu mua và chế biến hải sản, chống IUU
như các dự án do Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp của Liên hợp quốc (FAO) tài
trợ gồm Dự án Sáng kiến khu vực - Tăng trưởng xanh dương - Áp dụng thí điểm
công cụ quy hoạch và quản lý nuôi trồng thủy sản cho tăng trưởng bền vững tại một
số nước Đông Nam Á, Dự án Thúc đẩy và nhân rộng mô hình nuôi trồng thủy sản kết
hợp với trồng lúa và thực hành nuôi cá rô phi thích ứng với biến đổi khí hậu
cho mục đích tăng trưởng xanh tại khu vực châu Á, Dự án Hỗ trợ các nước giải
quyết vấn đề khai thác IUU;
Hoạt động hợp tác quốc tế về biển đã góp
phần quan trọng vào việc tăng cường tin cậy chính trị, quan hệ hữu nghị, hợp
tác giữa Việt Nam với các nước để từng bước giải quyết các tranh chấp trên biển
Dự án tổ chức khai thác, thu mua, chế biến
và xuất khẩu cá ngừ đại dương theo công nghệ Nhật Bản do Cơ quan hợp tác quốc tế
Nhật Bản (JICA) hỗ trợ; Chương trình hợp tác nâng cao bảo quản sau thu hoạch
trên tàu nghề lưới vây cá ngừ do Trung tâm Phát triển Nghề cá Đông Nam Á
(SEAFDEC) tài trợ; Dự án cải thiện nghề câu vàng cá ngừ và nghề khai thác ghẹ
xanh ở Việt Nam tại vùng biển Bình Định do Tổ chức bảo tồn động vật hoang dã
(WWF) tài trợ, tổ chức truyền thông cộng đồng ngư dân vùng biển về chống khai
thác IUU (do Australia tài trợ)…
Về du lịch biển, Việt Nam hiện đang triển
khai các hoạt động hợp tác trong khuôn khổ thỏa thuận với Philippines và
Singapore về phát triển du lịch tàu biển; hợp tác phát triển hành lang ven biển
phía Nam giữa tỉnh Cà Mau, Kiên Giang với Campuchia và tỉnh Trat (Thái Lan); tiếp
nhận và triển khai các hỗ trợ kỹ thuật về du lịch khu vực ven biển tại nhiều địa
phương, thu hút đầu tư nước ngoài vào ngành du lịch biển, đảo.
Về bảo tồn tài nguyên và môi trường biển,
nội dung hợp tác quốc tế tập trung vào tăng cường khả năng ứng phó với những
tác động của biến đổi khí hậu tới môi trường biển và các tài nguyên biển Việt
Nam như Dự án Bảo tồn các khu đất ngập nước quan trọng và sinh cảnh liên kết,
Chương trình Bảo vệ tổng hợp vùng ven biển và rừng ngập mặn Đồng bằng sông Cửu
Long nhằm thích ứng với biến đổi khí hậu giai đoạn 2 (2015-2018), Dự án cải thiện
sức chống chịu với Biến đổi khí hậu vùng ven biển Việt Nam, Campuchia và Thái
Lan (2013-2014), Dự án đánh giá thủy triều, sự thay đổi mực nước biển và đánh
giá tác động của quá trình này đối với môi trường ven biển Việt Nam do biến đổi
khí hậu;
Hiện đang xây dựng Dự án Xây dựng khả
năng phục hồi hệ sinh thái ứng phó với biến đổi khí hậu cho cộng đồng vùng bờ
biển tại Việt Nam…; giải quyết các sự cố trên biển như tràn dầu, loang dầu
thông qua Dự án hợp tác giữa Việt Nam, Thái Lan và Campuchia về nghiên cứu xây
dựng quy trình sử dụng đất phân tán trên biển, triển khai các hoạt động hợp tác
trong khuôn khổ Thỏa thuận với Philippines về hợp tác trong lĩnh vực ứng phó với
sự cố tràn dầu trên biển;
Bảo tồn môi trường biển, các loài sinh vật
biển, phát triển, phục hồi rừng phòng hộ ven biển thông qua Dự án Phục hồi và
phát triển bền vững hệ sinh thái rừng ngập mặn ven biển ở tỉnh Thái Bình, Dự án
Bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học biển và ven biển Côn Đảo (Đan Mạch
tài trợ), Dự án Phục hồi quản lý rừng phòng hộ ven biển tại Quảng Bình (JICA
tài trợ), Dự án Tăng cường khả năng phục hồi của cộng đồng ngư dân quy mô nhỏ
và hệ sinh thái biển tại khu bảo tồn biển cấp địa phương tỉnh Bình Định…; tổ chức
hội thảo với các chuyên gia nước ngoài về chống xói lở bờ biển (Bình Thuận),
xây dựng “Trung tâm phòng chống và giảm nhẹ thiên tai” (Bình Thuận)…
Về điều tra cơ bản tài nguyên, môi trường
biển, các dự án hợp tác tập trung vào các nội dung điều tra, khảo sát về tiềm
năng tài nguyên biển như tiềm năng khí hydrate; đặc trưng, đặc điểm của bờ biển,
đáy biển, địa chất, địa mạo, dòng chảy, sóng, độc tố biển, trầm tích biển, hiện
tượng nước trồi cũng như hệ sinh thái và môi trường biển Việt Nam, trắc địa,
nghiên cứu địa chất, khoáng sản biển, tài nguyên–môi trường vùng biển sâu xa bờ
khu vực Trung và Nam Trung Bộ.
Về phát triển khoa học, công nghệ biển,
các dự án tập trung vào việc nghiên cứu các công nghệ ứng phó, xử lý với sự cố
tràn dầu, dầu loang trên biển, công nghệ vận tải bằng tàu biển sinh vật độc hại,
xây dựng khả năng phục hồi của hệ sinh thái ven biển, phát triển khoa học, công
nghệ mới nhằm chống xói lở bờ biển, công nghệ năng lượng tái tạo tại các khu vực
biển, chuyển giao khoa học, công nghệ; tổ chức các hội thảo, hội nghị quốc tế
trao đổi chuyên môn về khoa học, công nghệ biển và hàng hải; đào tạo nâng cao
năng lực cho cán bộ tham gia các dự án liên quan, nâng cao nhận thức cho người
dân ở các vùng miền nơi dự án được triển khai.
Về bảo đảm an ninh, an toàn trên biển,
Việt Nam tham gia hợp tác quốc tế và thực hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam
là thành viên trong lĩnh vực này, đặc biệt là Công ước tạo thuận lợi giao thông
hàng hải quốc tế. Việt Nam phối hợp với Tổ chức Di trú quốc tế (IMO) thực hiện
Dự án Xây dựng năng lực và chiến dịch truyền thông cộng đồng chống đưa người di
cư trái phép tại Việt Nam. Việt Nam cũng chủ động tham gia và đóng góp tích cực
vào các hội thảo, hội nghị, diễn đàn an ninh chính trị quốc tế, đặc biệt là cơ
chế trong ASEAN. Thực hiện nghĩa thành viên của Tổ chức Thủy đạc quốc tế (IHO),
Vịệt Nam đã thành lập Ủy ban Thủy đạc Việt Nam (VHO) để triển khai nhiều hoạt động
quốc tế, mang lại nhiều kết quả thiết thực.
Hoạt
động hợp tác quốc tế về biển biểu thị rõ quyết tâm của Việt Nam trong việc thực
thi đầy đủ những nội dung của UNCLOS
Các cơ quan chức năng của Việt Nam đã ký
kết và triển khai các thỏa thuận về chia sẻ thông tin, phối hợp giữa Hải quân,
Cảnh sát biển Việt Nam với lực lượng chức năng của các nước như Ấn Độ, Nhật Bản,
Trung Quốc, Campuchia; thiết lập đường dây nóng giữa Hải quân Việt Nam với Hải
quan Brunei, Campuchia, Thái Lan… Việt Nam đã phối hợp cứu vớt ngư dân
Philippines gặp nạn trên biển, phối hợp với Indonesia bắt giữ tàu cướp biển… Hợp
tác quốc tế trong lĩnh vực này tạo điều kiện thuận lợi tiến hành các hoạt động
hợp tác phòng chống tội phạm xuyên quốc gia trên biển, phối hợp giải quyết kịp
thời các vấn đề phát sinh, không để xảy ra xung đột trên biển…
Hoạt động hợp tác quốc tế về biển đã góp
phần quan trọng vào việc tăng cường tin cậy chính trị, quan hệ hữu nghị, hợp
tác giữa Việt Nam với các nước để từng bước giải quyết các tranh chấp trên biển;
tạo dựng môi trường hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới; đồng thời,
giúp huy động các nguồn lực, tri thức cần thiết để phục vụ công cuộc công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước; biểu thị rõ quyết tâm của Việt Nam trong việc thực
thi đầy đủ những nội dung của UNCLOS./.
![](http://4.bp.blogspot.com/-JE_IPFlB95A/T2xOXxddz4I/AAAAAAAAA2I/sYgUF3LxUdw/s1600/tinkhac.jpg)
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét