Hoa Kỳ xác định Việt Nam thao túng tiền tệ: Cần nhìn nhận đa chiều và khách quan
Ngày 16-12, Bộ Tài chính (BTC) Hoa Kỳ đã
xác định Việt Nam và Thụy Sĩ là những quốc gia thao túng tiền tệ cùng với 10 nền
kinh tế thuộc diện theo dõi. Đây là lần đầu Hoa Kỳ gắn mác “thao túng tiền tệ”
đối với Việt Nam. Tuy nhiên, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) khẳng định, điều
hành chính sách tiền tệ (CSTT) của Việt Nam không nhằm tạo lợi thế cạnh tranh
thương mại quốc tế.
Theo Đạo luật Cạnh tranh và Thương mại
năm 1988 và Đạo luật Thuận lợi hóa và Thực thi Thương mại năm 2015, định kỳ nửa
năm, BTC Hoa Kỳ công bố báo cáo về chính sách kinh tế và ngoại hối của các đối
tác thương mại lớn của Hoa Kỳ. Nếu bất kỳ đối tác thương mại nào có thặng dư
thương mại lớn với Hoa Kỳ và cán cân vãng lai thặng dư lớn, Hoa Kỳ sẽ phân tích
sâu để xem xét quốc gia này có thao túng tiền tệ hay không. Các “ngưỡng” tiêu
chí cụ thể sẽ được rà soát định kỳ, tùy thuộc vào chính sách kinh tế, đối ngoại
của Hoa Kỳ từng thời kỳ. Nếu một quốc gia chạm tất cả các “ngưỡng”, Hoa Kỳ sẽ gắn
mác thao túng tiền tệ. Khi đó, Hoa Kỳ sẽ có những biện pháp để can thiệp, có thể
là đàm phán để các quốc gia điều chỉnh chính sách, thậm chí đưa ra các biện
pháp trừng phạt đối với quốc gia đó nếu không đạt được thỏa thuận và các cam kết
không có tiến triển.
Từ kỳ rà soát tháng 5-2019, Hoa Kỳ đã có
một số thay đổi về tiêu chí thao túng tiền tệ. Ở vòng kiểm duyệt đầu tiên, Hoa
Kỳ sẽ xem xét các đối tác thương mại chính có tổng kim ngạch thương mại hàng
hóa song phương hơn 40 tỷ USD (thay cho tiêu chí cũ là xem xét 12 đối tác
thương mại lớn nhất). Ở vòng thứ hai, Hoa Kỳ vẫn đưa ra ba tiêu chí đánh giá khả
năng một quốc gia thao túng tiền tệ, cụ thể: có thặng dư thương mại song phương
với Hoa Kỳ hơn 20 tỷ USD; thặng dư cán cân tài khoản vãng lai tương đương 2%
GDP (trước đây là 3%); và can thiệp một chiều (mua hoặc bán ròng), kéo dài trên
thị trường ngoại tệ trong liên tục sáu tháng trên giai đoạn 12 tháng, với tổng
lượng mua ròng hơn 2% GDP.
Đối với Việt Nam, trong hai báo cáo định
kỳ nửa năm (từ tháng 5-2019 đến tháng 6-2020), Việt Nam đã hai lần bị BTC Hoa Kỳ
đưa vào danh sách giám sát. Đến ngày 16-12-2020 (tại báo cáo tháng 12-2020 cho
đợt rà soát từ tháng 7-2019 đến tháng 6-2020), BTC Hoa Kỳ đã xác định Việt Nam
là nước thao túng tiền tệ bởi cho rằng Việt Nam đã đạt và vượt ngưỡng cả ba
tiêu chí nêu trên.
Liên quan ba tiêu chí nêu trên, TS
Trương Văn Phước - Thành viên Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng Chính phủ cho rằng,
có nhiều điểm cần phải làm rõ. Theo đó, ở Việt Nam, cán cân vãng lai gồm cán
cân thương mại và các khoản chuyển tiền từ nước ngoài về, nhất là kiều hối. Thặng
dư cán cân vãng lai của Việt Nam chủ yếu do nhận tiền kiều hối từ nước ngoài về.
Mà kiều hối chuyển về là yếu tố khách quan, không phải do tỷ giá cao hay thấp.
“Do đó, tỷ giá không phải là yếu tố làm cán cân vãng lai thặng dư vượt quá tiêu
chí Hoa Kỳ quy định mức 2% GDP” - TS Trương Văn Phước nhìn nhận.
Còn với tiêu chí thặng dư thương mại, việc
Việt Nam xuất siêu sang Hoa Kỳ, có thặng dư thương mại với Hoa Kỳ lớn có nhiều
lý do nhưng chủ yếu do cấu trúc của cán cân thương mại Việt Nam. Hàng Việt Nam
xuất sang Hoa Kỳ chủ yếu là dệt may, da giày, thủy sản,... đều là nhóm hàng hóa
xuất phát từ nhân công giá rẻ - lợi thế của Việt Nam. Phần lớn nguyên liệu sản
xuất đều nhập khẩu, trong đó có nhập từ Hoa Kỳ. Đơn cử một đôi giày của hãng
Nike xuất sang Hoa Kỳ, từ đế đến dây, da giày đều nhập khẩu. Do đó, TS Trương
Văn Phước cho rằng nếu nói những vấn đề đó là do Việt Nam đưa tỷ giá vào để cho
hàng hóa của Việt Nam rẻ hơn là không phải. Những năm gần đây, Việt Nam xuất
siêu nhưng không lớn, khoảng 5 đến 10 tỷ USD/năm, riêng năm 2020 hơn 20 tỷ USD.
Đại diện lãnh đạo NHNN cũng khẳng định:
Thặng dư thương mại song phương với Hoa Kỳ và thặng dư cán cân vãng lai là kết
quả của hàng loạt yếu tố, trong đó có các yếu tố liên quan các đặc thù của nền
kinh tế Việt Nam. Việc NHNN mua ngoại tệ thời gian qua nhằm bảo đảm hoạt động
thông suốt của thị trường ngoại tệ trong bối cảnh nguồn cung ngoại tệ dồi dào,
góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, đồng thời củng cố dự trữ ngoại hối nhà nước vốn
ở mức thấp so các nước trong khu vực để tăng cường an ninh tài chính tiền tệ quốc
gia.
TS Cấn Văn Lực và nhóm nghiên cứu cũng
cho rằng, việc điều hành tỷ giá những năm qua của NHNN trong khuôn khổ CSTT
chung nhằm thực hiện mục tiêu nhất quán là kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế
vĩ mô, không nhằm tạo lợi thế cạnh tranh thương mại quốc tế không công bằng. Kể
từ năm 2016 đến nay, NHNN đã thực hiện cơ chế điều hành tỷ giá theo biến động của
rổ tiền tệ các nước có quan hệ kinh tế lớn với Việt Nam. Chính sách điều hành tỷ
giá chủ động, linh hoạt cùng với chính sách tài khóa thận trọng (kiểm soát nợ
công và thâm hụt ngân sách) đã giúp ổn định kinh tế vĩ mô của Việt Nam trong
giai đoạn 2016 - 2020. “Trái với nhận định của BTC Hoa Kỳ, thực tế trong ba năm
(2017 - 2019), giá trị thực của VND theo tính toán của chúng tôi tăng khoảng
2,6%. Theo đó, cán cân thương mại của Việt Nam với Hoa Kỳ có thể bị tác động
tiêu cực do đồng VND tăng giá so với USD trong ba năm 2017 - 2019, chứ không hẳn
là tạo lợi thế xuất khẩu cho Việt Nam. Vì vậy, việc BTC Hoa Kỳ khẳng định đồng
VND bị định giá thấp có tạo ra lợi thế xuất khẩu cho Việt Nam cần phải được xem
xét kỹ lưỡng và chính xác hơn” - TS Cấn Văn Lực và nhóm nghiên cứu nhận định.
Bên cạnh đó, thặng dư thương mại song
phương với Hoa Kỳ và thặng dư cán cân vãng lai là kết quả của rất nhiều yếu tố
liên quan đặc thù của nền kinh tế Việt Nam. VND giảm giá không hỗ trợ nhiều cho
xuất khẩu (từ đó hỗ trợ cán cân thương mại thặng dư) do đặc thù cơ cấu nền kinh
tế Việt Nam. Đó là xuất khẩu nhiều thì cũng đồng nghĩa với nhập khẩu nhiều. Điều
này là do hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam do khối doanh nghiệp đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI) chi phối. Khối này chiếm 70% kim ngạch xuất khẩu, 59% kim
ngạch nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 2017-2019. Theo đó, để sản xuất hàng xuất
khẩu, do công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam còn yếu, nên khối doanh nghiệp FDI vẫn
phải nhập khẩu nguyên phụ liệu đầu vào cho dù tỷ giá VND được điều chỉnh tăng
hay giảm.
Theo Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), dự trữ
ngoại hối của Việt Nam cuối năm 2019 chỉ ở mức tương đương 3,5 tháng nhập khẩu
(cao hơn một chút so với mức khuyến nghị tối thiểu ba tháng nhập khẩu của IMF),
thấp hơn nhiều so với mức năm tháng nhập khẩu của Xin-ga-po, tám tháng của
Phi-li-pin, Hàn Quốc hay chín tháng của Thái-lan và 14 tháng của Trung Quốc.
Một số tổ chức quốc tế uy tín, trong đó
có Viện Nghiên cứu kinh tế quốc tế Peterson (PIIE) thường xuyên nghiên cứu về vấn
đề cáo buộc thao túng tiền tệ của Hoa Kỳ với các nước. Ngày 16-12-2020, Viện
Peterson đã nhận định rằng, cáo buộc từ BTC Hoa Kỳ rằng Việt Nam thao túng tiền
tệ là chưa thỏa đáng và không phù hợp với điều kiện của Việt Nam.
Qua các vụ việc liên quan thao túng tiền
tệ mà Hoa Kỳ cáo buộc các nước, có thể
thấy rằng, những tiêu chí đánh giá thao túng tiền tệ mà Hoa Kỳ áp dụng vẫn chưa
nhận được sự đồng thuận của các đối tác thương mại, sự thừa nhận từ các tổ chức
quốc tế và cộng đồng chuyên gia cũng như các viện nghiên cứu uy tín trên thế giới.
Đánh giá từ TS Cấn Văn Lực và nhóm nghiên cứu cho rằng: BTC Hoa Kỳ chưa nhìn nhận
đa chiều và chưa xét đến đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam cũng như những khuyến
cáo của các tổ chức quốc tế (như WB, IMF) đối với Việt Nam, một nền kinh tế
đang phát triển nhanh, độ mở cao và cần thiết phải có các công cụ (phù hợp
thông lệ quốc tế) cho phát triển kinh tế bền vững, an toàn, có khả năng chống
chịu với những cú sốc từ bên ngoài.
Theo Đạo luật Xúc tiến và Tăng cường
thương mại năm 2015, BTC Hoa Kỳ sẽ đệ trình báo cáo lên Quốc hội Hoa Kỳ, tiến
hành các cuộc thương lượng giữa cơ quan chức năng hai bên (Việt Nam và Hoa Kỳ)
để thống nhất và thực hiện các giải pháp chung nhằm cân bằng hơn cán cân thương
mại và một số yêu sách cụ thể khác. Nếu hai bên không tìm được tiếng nói chung,
phía Hoa Kỳ mới có thể tìm đến các biện pháp cứng rắn hơn.
Trong bối cảnh diễn biến kinh tế thế giới,
cấu trúc thương mại toàn cầu còn nhiều bất định, việc bị BTC Hoa Kỳ chính thức
đưa vào danh sách các nước thao túng tiền tệ sẽ có những tác động bất lợi nhất
định tới quan hệ thương mại, đầu tư Việt Nam - Hoa Kỳ, cũng như tới nền kinh tế
Việt Nam. TS Cấn Văn Lực và nhóm nghiên cứu đề xuất: Các cơ quan chức năng Việt
Nam cần thận trọng, phối hợp tốt, chủ động và tích cực trao đổi thông tin với
phía Hoa Kỳ trên tinh thần hợp tác, hai bên cùng có lợi, tiến đến quan hệ
thương mại hài hòa, công bằng theo Kế hoạch hành động hợp tác giữa hai nước;
các cơ quan chức năng, địa phương cần tăng cường, quyết liệt, phối hợp nhằm
nâng cao hiệu quả công tác quản lý, kiên quyết xử lý nghiêm các hành vi đội lốt
thương mại, đội lốt đầu tư để lợi dụng những ưu đãi từ hợp tác Việt Nam - Hoa Kỳ
và các hiệp định FTA cũng như hành vi trốn thuế…
Đại diện lãnh đạo NHNN nhấn mạnh, Việt
Nam coi trọng mối quan hệ kinh tế - thương mại ổn định và bền vững với Hoa Kỳ.
NHNN sẽ tích cực phối hợp các bộ, ngành liên quan để trao đổi, làm việc về các
vấn đề mà Hoa Kỳ quan tâm trên tinh thần hợp tác, hai bên cùng có lợi, tiến tới
quan hệ thương mại hài hòa, bền vững. Đồng thời, tiếp tục điều hành chính sách
tiền tệ nhằm kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh
tế một cách hợp lý, điều hành tỷ giá linh hoạt, phù hợp các cân đối vĩ mô, diễn
biến thị trường và mục tiêu CSTT, không nhằm tạo lợi thế cạnh tranh thương mại
quốc tế không công bằng.

- 越柬巩固团结友好关系
- Việt Nam - Campuchia khẳng định quan hệ đoàn kết, hữu nghị
- 越老两国在发展道路上坚定不移地前进
- Việt Nam và Lào vững bước trên con đường phát triển
- 外交为国家建设、发展及可持续融入国际做出贡献
- Ngoại giao góp phần xây dựng, phát triển và đưa đất nước hội nhập bền vững
- 越南外交77周年:为国为民鞠躬尽瘁
- 越共中央总书记阮富仲访问中国:推动两国关系进入发展新阶段
- Đưa quan hệ Việt Nam - Trung Quốc bước sang giai đoạn phát triển mới
- 越南同联合国一道实现建设和平、合作与发展世界的渴望
- Việt Nam đồng hành cùng Liên hợp quốc thực hiện khát vọng chung về một thế giới hòa bình, hợp tác và phát triển
- 越南与新加坡巩固战略互信
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét