Ðánh giá tổng quát và bài học kinh nghiệm qua 35 năm đổi mới
35 năm đổi mới (1986 - 2021) là giai đoạn
quan trọng của sự nghiệp phát triển đất nước, đánh dấu sự trưởng thành mọi mặt
của Ðảng, Nhà nước và nhân dân, là sáng tạo có tính tất yếu, toàn diện để gạt bỏ,
tháo gỡ những vướng mắc, giải phóng năng lực sản xuất, tạo động lực cho sự phát
triển bền vững của đất nước. Bởi đổi mới là công cuộc có tính tổng thể, được
chuẩn bị bài bản, theo cách thức, với từng đường đi nước bước cụ thể, được cân
nhắc chắc chắn, triển khai một cách sâu rộng và đồng bộ, cho nên 35 năm qua,
công cuộc đổi mới đã thật sự gắn bó với vận mệnh dân tộc, vận mệnh đất nước, gắn
bó với mỗi người Việt Nam, và được bạn bè quốc tế hết sức quan tâm.
Ðổi mới để phát triển, song phải là phát
triển trong thế ổn định, theo đúng định hướng, con đường mà chúng ta đã chọn. Ðổi
mới để thực hiện bước chuyển từ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp sang cơ chế
thị trường do Nhà nước quản lý, điều hành theo định hướng XHCN, khắc phục tình
trạng thả nổi thị trường; phát triển kinh tế nhưng phải đi đôi với thực hiện
công bằng xã hội, khắc phục tình trạng phân hóa giàu nghèo. Ðổi mới yêu cầu gắn
với mở cửa, hội nhập, với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa để đất nước
phát triển nhanh, bền vững; xây dựng, tăng cường lực lượng sản xuất, củng cố và
phát triển quan hệ sản xuất phù hợp, từ đó nâng tầm đất nước lên trình độ mới,
tầm cao mới.
Sau 35 năm, đất nước đã đạt được những kết
quả thiết thực, mà trước hết là đổi mới tư duy để khắc phục được nhận thức lệch
lạc, nhất là bệnh giáo điều, chủ quan duy ý chí, vì thế vai trò lãnh đạo của Ðảng
càng được tăng cường, định hướng XHCN được giữ vững, hình thành quan niệm mới về
mục tiêu, bước đi, cách thức phát triển đất nước và chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, quản lý xã hội, kinh tế thị trường theo định
hướng XHCN từng bước hình thành, phát triển. Công cuộc đổi mới đã giải phóng sức
sản xuất, củng cố, tăng cường quan hệ sản xuất mới, đưa đất nước ra khỏi tình
trạng một nước có thu nhập thấp; đời sống nhân dân cải thiện đáng kể, ổn định
chính trị - xã hội được bảo đảm, an ninh quốc phòng được củng cố vững chắc,
quan hệ hợp tác quốc tế ngày càng sâu rộng. Ðổi mới đã đưa nước ta từ chỗ thiếu
thốn, có khi phải nhập lương thực, nay đã thành nước xuất khẩu gạo đứng ở tốp đầu
thế giới. Chưa bao giờ nhịp độ phát triển và đổi thay từ nông thôn đến thành thị,
từ miền núi đến đồng bằng lại nhanh chóng, mạnh mẽ như hiện nay. Cũng chưa bao
giờ phong cách sống, làm việc của mọi gia đình và mọi người dân lại có nhiều
nét mới mẻ, tươi tắn như hôm nay. Ðổi mới giúp chúng ta vừa kế thừa và phát huy
những thành quả tốt đẹp đạt được trước đây, vừa có cách nghĩ khác trước, nghe
khác trước, nhìn khác trước, làm khác trước, phù hợp với trạng thái phát triển
mới, vì thế, đã đem đến một sức vóc mới cho đất nước, tiếp sức chúng ta đi thêm
những bước dài trên con đường đã chọn.
Qua 35 năm đổi mới, đất nước đã ra khỏi
khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang
phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập quốc tế; bộ mặt đất nước, đời sống của nhân dân thật sự thay đổi;
dân chủ XHCN được phát huy và mở rộng; đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố,
tăng cường. Công tác xây dựng Ðảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và hệ thống
chính trị được đẩy mạnh; sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên; độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ XHCN được giữ vững; quan hệ
đối ngoại ngày càng mở rộng đi vào chiều sâu; vị thế, uy tín của Việt Nam trên
trường quốc tế được nâng cao…
Các thành tựu đó tạo tiền đề quan trọng
để đất nước tiếp tục đổi mới, phát triển trong những năm tới; đồng thời khẳng định
con đường đi lên CNXH là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển
của lịch sử. Cội nguồn của các thành tựu đó là do Ðảng ta có đường lối đổi mới
đúng đắn, sáng tạo, phù hợp lợi ích, nguyện vọng của nhân dân, được nhân dân
tích cực ủng hộ, thực hiện, được bạn bè quốc tế ủng hộ, hợp tác, giúp đỡ. Ðảng
đã nhận thức, vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, kế thừa, phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam, từ đó giữ bản
lĩnh chính trị, kiên định lý tưởng, mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, đồng thời
nhạy bén, sáng tạo, kịp thời đưa ra các chủ trương, quyết sách phù hợp từng
giai đoạn cách mạng, phù hợp tình hình thế giới và trong nước. Ðó là cơ sở để
năm 2020, với phương châm vì tính mạng con người, không để ai bị bỏ lại phía
sau, toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân đã nỗ lực vượt qua đại dịch Covid-19, khắc
phục hậu quả bão lụt ở các tỉnh miền trung, giúp nhân dân sớm ổn định cuộc sống.
Song bên cạnh những thành tựu, chúng ta
còn có hạn chế, khuyết điểm. Cụ thể như: Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu
lý luận còn bất cập, chưa làm rõ một số vấn đề đặt ra trong quá trình đổi mới để
định hướng thực tiễn, cung cấp cơ sở khoa học hoạch định đường lối của Ðảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước. Lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH
còn một số vấn đề cần phải qua tổng kết thực tiễn để tiếp tục làm rõ. Kinh tế
phát triển chưa bền vững, chưa tương xứng tiềm năng, yêu cầu và thực tế nguồn lực
được huy động; kinh tế vĩ mô chưa thật ổn định, tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa
cao. Chất lượng, hiệu quả, năng suất lao động xã hội và năng lực cạnh tranh của
nền kinh tế còn thấp. Phát triển còn thiếu bền vững cả về kinh tế, văn hóa, xã
hội, môi trường. Nhiều vấn đề bức xúc nảy sinh, nhất là các vấn đề xã hội và quản
lý xã hội chưa được nhận thức đầy đủ và giải quyết có hiệu quả; còn tiềm ẩn một
số nhân tố, nguy cơ gây mất ổn định xã hội. Trên một số mặt, lĩnh vực, còn một
bộ phận nhân dân chưa được thụ hưởng đầy đủ, công bằng thành quả của công cuộc
đổi mới…
Từ thành tựu, hạn chế, khuyết điểm đó,
có thể đúc rút một số bài học:
1. Quá trình đổi mới phải chủ động,
không ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, vận
dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó
làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Ðảng, là cơ sở phương pháp
luận quan trọng nhất để phân tích tình hình, hoạch định, hoàn thiện đường lối;
đồng thời kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam. Xây dựng đất nước
theo con đường XHCN là sự nghiệp khó khăn, phức tạp, lâu dài, nhưng đó là con
đường hợp quy luật để có một nước Việt Nam phát triển bền vững. Và trong quá
trình đổi mới, bên cạnh các cơ hội, có thể xuất hiện vấn đề mới, khó khăn,
thách thức mới, Ðảng, Nhà nước và nhân dân cần phải chủ động, không ngừng sáng
tạo để giải quyết và vượt qua.
2. Ðổi mới phải luôn luôn quán triệt
quan điểm “dân là gốc”, vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai
trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân,
phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc. Xa rời, đi ngược lại lợi ích của nhân
dân, đổi mới sẽ thất bại. Những ý kiến, nguyện vọng, sáng kiến của nhân dân nảy
sinh từ thực tiễn là yếu tố quan trọng góp phần hình thành đường lối đổi mới của
Ðảng. Nhân dân làm nên các thành tựu của đổi mới, đổi mới phải dựa vào nhân
dân. Dân chủ XHCN là bản chất của chế độ, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của
sự phát triển đất nước. Do đó, xây dựng, phát huy dân chủ XHCN phải bảo đảm tất
cả quyền lực thuộc về nhân dân để nhân dân thật sự là chủ thể tiến hành đổi mới
và thụ hưởng thành quả của đổi mới. Ðể phát huy dân chủ XHCN, phát huy sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân tộc, cần phòng, chống đặc quyền, đặc lợi, chống suy
thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
3. Ðổi mới phải toàn diện, đồng bộ, có
bước đi phù hợp; phải tôn trọng quy luật khách quan, xuất phát từ thực tiễn,
bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tập trung
giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề thực tiễn đặt ra. Thực tế cho thấy,
phải đổi mới toàn diện, đồng bộ trên mọi lĩnh vực đời sống, từ nhận thức, tư tưởng
đến hoạt động thực tiễn, từ hoạt động lãnh đạo của Ðảng và quản lý của Nhà nước
đến hoạt động trong từng bộ phận của hệ thống chính trị, từ hoạt động ở trung
ương đến hoạt động của địa phương, cơ sở. Trong quá trình đổi mới, phải tổ chức
thực hiện quyết liệt với các bước đi, hình thức, cách làm phù hợp, hiệu quả;
không để xảy ra tình trạng nóng vội, chủ quan, hấp tấp, vì sẽ gây mất ổn định,
thậm chí rối loạn, tạo cơ hội cho các thế lực thù địch chống phá. Ðồng thời phải
chủ động, năng động, không ngừng sáng tạo, khắc phục tình trạng bảo thủ, trì trệ,
bỏ lỡ cơ hội phát triển. Phải tôn trọng quy luật khách quan, coi sự phát triển
của thực tiễn là yêu cầu, là cơ sở để đổi mới tư duy lý luận, đường lối, chủ
trương, cơ chế, chính sách. Mọi đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của
Ðảng và Nhà nước đều phải xuất phát từ thực tiễn. Ðể dân tin, dân ủng hộ, dân
tích cực thực hiện đường lối đổi mới, Ðảng, Nhà nước phải giải quyết kịp thời,
hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra; kịp thời điều chỉnh, bổ sung các thể
chế, thiết chế, cơ chế, chính sách không còn phù hợp, cản trở phát triển.
4. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia -
dân tộc; kiên định độc lập, tự chủ, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế trên cơ
sở bình đẳng, cùng có lợi. Phải luôn coi lợi ích quốc gia - dân tộc là tối thượng.
Trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng cần kiên định độc lập, tự chủ, và đồng thời chủ
động, tích cực hội nhập quốc tế. Kết hợp phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp
để phát triển đất nước nhanh, bền vững. Trong đó, phát huy sức mạnh toàn dân tộc
là cơ sở kết hợp sức mạnh thời đại, làm cho sức mạnh toàn dân tộc mạnh hơn. Và
quan hệ quốc tế dựa trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng,
cùng có lợi.
5. Phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh
đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Ðảng; xây dựng đội ngũ cán
bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín
ngang tầm nhiệm vụ có ý nghĩa quyết định đến công tác xây dựng Ðảng trong sạch,
vững mạnh, lãnh đạo thành công sự nghiệp đổi mới; nâng cao hiệu lực, hiệu quả
hoạt động của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và cả
hệ thống chính trị; tăng cường mối quan hệ mật thiết với nhân dân. Sự lãnh đạo
đúng đắn của Ðảng là nhân tố quyết định thành công của công cuộc đổi mới. Vì thế,
nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Ðảng; xây dựng
Ðảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh là nhiệm vụ then chốt. Ðảng phải
thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu; đồng thời thường xuyên kiện toàn tổ chức, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt
động của Nhà nước, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể trong
tập hợp mọi tầng lớp nhân dân, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc
để thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới.
Rõ ràng sau 35 năm, chúng ta đã không chỉ
đạt được thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử, mà còn tiếp tục đẩy mạnh và phát
triển với các nguồn lực phong phú. Hành trình đổi mới với sự hài hòa giữa ý Ðảng
với lòng dân đã và đang kết hợp cả ba yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Ðó
là động lực lớn nhất, yếu tố cơ bản nhất tạo nên thành công của sự nghiệp cao cả
là xây dựng một Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững
bước đi lên CNXH.
![](http://4.bp.blogspot.com/-JE_IPFlB95A/T2xOXxddz4I/AAAAAAAAA2I/sYgUF3LxUdw/s1600/tinkhac.jpg)
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét