Du lịch Việt Nam vượt khó, tìm thời cơ trong thách thức
Năm 2020, do ảnh hưởng của đại dịch
Covid-19, du lịch Việt Nam chịu tổn thất nặng nề nhất trong các ngành kinh tế.
Du lịch thất thu khoảng 23 tỷ USD do lượng khách quốc tế đến Việt Nam giảm 80%
(so với năm 2019), lượng khách trong nước cũng giảm gần 50% … Song các đợt giãn
cách xã hội vì dịch Covid-19 cũng là "thời gian nghỉ cần thiết" để
ngành du lịch nhìn lại những hạn chế, tìm cơ hội trong thách thức và có các giải
pháp phát triển bền vững trong giai đoạn mới.
Bước vào năm 2020, du lịch Việt Nam có
được đà và nền tảng tăng trưởng ngoạn mục 5 năm liên tục. Tháng 1-2020, lần đầu
Việt Nam đón được hai triệu khách quốc tế trong một tháng. Thế nhưng, từ tháng
2-2020, dịch Covid-19 bùng phát trên thế giới đã ngay lập tức ảnh hưởng nghiêm
trọng đến ngành du lịch. Ngành du lịch Việt Nam phải đối mặt với những khó khăn
chưa từng xảy ra trước đó. Kể từ tháng 3-2020, Việt Nam ngừng hoạt động đón
khách quốc tế, chỉ còn hoạt động du lịch trong nước. Nhưng thị trường du lịch
trong nước cũng bị ảnh hưởng bởi các đợt giãn cách xã hội khi dịch bùng phát.
Trong nước, dù dịch Covid-19 nhanh chóng được khống chế tốt, Việt Nam trở thành
điểm sáng về an toàn phòng dịch trên toàn thế giới nhưng ngành du lịch không
tránh khỏi những tổn thất nặng nề. Theo dự báo của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
(VHTTDL), lượng khách quốc tế cả năm 2020 ước chỉ đạt 3,8 triệu lượt, giảm gần
80% so với năm 2019; khách du lịch trong nước cũng giảm gần 50%; khoảng 40-60%
lao động ngành du lịch bị mất việc làm hoặc cắt giảm ngày công; khoảng 95%
doanh nghiệp lữ hành quốc tế ngừng hoạt động; nhiều khách sạn phải đóng cửa,
công suất sử dụng phòng có thời điểm chỉ đạt từ 10-15%; tổng thu du lịch cả nước
thiệt hại lên đến 530 nghìn tỷ đồng (tương đương 23 tỷ USD)...
Dịch Covid-19 buộc ngành du lịch phải
chuyển hướng vào tập trung phát triển du lịch nội địa. Du lịch phải cùng lúc thực
hiện "nhiệm vụ kép": vừa bảo đảm an toàn tính mạng, sức khỏe người
dân vừa duy trì sản xuất, kinh doanh. Và du lịch trong nước là giải pháp duy nhất
giúp các doanh nghiệp từng bước phục hồi, duy trì hoạt động. Ngành du lịch đã
hai lần phát động chương trình kích cầu du lịch nội địa vào tháng 5-2020 (với
chủ đề "Người Việt Nam đi du lịch Việt Nam") và tháng 9-2020 (với chủ
đề "Du lịch Việt Nam an toàn, hấp dẫn"). Chương trình kích cầu du lịch
nhận được sự hưởng ứng tích cực của các địa phương, doanh nghiệp và người dân.
Bằng tất cả những nỗ lực, đến hết tháng 11-2020, tổng số khách du lịch trong nước
đạt 49 triệu lượt. Du lịch trong nước đã góp phần duy trì được hoạt động ở mức
cầm chừng của ngành trong thời chống dịch …
Mức độ tàn phá ngoài sức tưởng tượng của
dịch Covid-19 khiến ngành du lịch Việt Nam phải đánh giá lại, tư duy lại cách
làm du lịch trong bối cảnh dịch còn diễn biến phức tạp. Du lịch Việt Nam chuyển
hướng tập trung khai thác thị trường khách trong nước ở trạng thái "bình
thường mới", với yêu cầu tiên quyết là phải bảo đảm an toàn phòng, chống dịch
cho các sản phẩm du lịch, bảo đảm an toàn cho du khách. Nhưng ngành du lịch
cũng phải tính xa hơn để đón đầu khách quốc tế, với những sản phẩm mới, phù hợp
ngay khi đủ điều kiện mở lại hoạt động đón khách quốc tế.
Qua nhiều diễn đàn, hội nghị về du lịch,
những điểm yếu và hạn chế của du lịch Việt Nam bộc lộ rõ qua đại dịch đã được
chính ngành du lịch nhìn nhận lại, đánh giá một cách sâu sắc để có những giải
pháp nhằm vực dậy hoạt động sau dịch. Ðầu tiên, ngành du lịch xác định cần
nhanh chóng cơ cấu lại thị trường khách. Thời gian qua, du lịch Việt Nam phụ
thuộc quá nhiều vào thị trường Ðông - Bắc Á (gồm Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc)
với khoảng 66,8% tổng lượng khách quốc tế, trong khi một số thị trường khách có
mức chi tiêu cao (như châu Âu, châu Mỹ...) vẫn chưa được khai thác hiệu quả. Ðiều
đó đòi hỏi ngành du lịch phải điều chỉnh để có các dòng sản phẩm đáp ứng nhu cầu
đa dạng của du khách quốc tế, nhất là các thị trường khách "nhà
giàu". Ðồng thời, bảo đảm phát triển cân đối cơ cấu khách du lịch quốc tế
đến từ nhiều thị trường. Tiếp đến là nâng cao chất lượng sản phẩm và hiệu quả
kinh doanh. Theo thống kê, thời gian lưu trú của du khách quốc tế đến Việt Nam
bình quân chỉ đạt 8,1 ngày, với mức chi tiêu bình quân là 1.074 USD cho một
chuyến đi (thấp hơn đáng kể so với mức tương ứng của Thái-lan là chín ngày và
1.565 USD). Ðây là vấn đề đòi hỏi ngành du lịch phải có giải pháp về sản phẩm
và hướng đi để ưu tiên thu hút dòng khách có mức chi tiêu cao, lưu trú dài
ngày, bảo đảm sự phát triển bền vững cho du lịch Việt Nam, đồng thời cần chú trọng
hơn đến thị trường khách trong nước. Theo các chuyên gia và cơ quan quản lý, việc
cơ cấu lại thị trường, để du lịch trong nước trở thành thị trường quan trọng,
đóng góp từ 55% đến 75% tổng thu của ngành du lịch trong hai đến ba năm tới, là
điều rất cần thiết. Lâu nay do chưa quan tâm đúng mức thị trường khách du lịch
trong nước, nên dù khách trong nước chiếm hơn 82,5% tổng lượng khách, nhưng
doanh thu du lịch từ khách trong nước chỉ chiếm chưa đến 45% tổng doanh thu du
lịch. Lý do là sản phẩm du lịch phục vụ khách trong nước chưa đa dạng, còn mang
tính mùa vụ, thiếu sản phẩm hấp dẫn để thu hút và kích thích chi tiêu của đối
tượng khách này. Việc khai thác thị trường du lịch trong nước với tiềm năng 100
triệu dân, trong đó số người có thu nhập khá ngày càng tăng nhanh, mang đến nguồn
thu ổn định, bền vững là hướng tập trung hiện nay của ngành.
Trong tình hình khó khăn chống đỡ dịch
Covid-19, vấn đề hợp tác, liên kết du lịch được các địa phương chú trọng, chia
sẻ thực chất hơn, trở thành giải pháp quan trọng để tăng lượng khách du lịch
trong nước. Tăng cường liên kết vùng, liên kết địa phương, liên kết ngành,
doanh nghiệp; chú trọng nâng cao chất lượng, sản phẩm du lịch, bảo đảm an toàn
cho du khách... là những giải pháp trọng tâm. Các địa phương đã "ngồi lại"
với nhau để xác định những sản phẩm đặc trưng, phù hợp, hấp dẫn của từng vùng,
tránh việc cạnh tranh bằng các sản phẩm giống nhau hoặc gây xung đột. Việc hợp
tác liên kết phát triển du lịch giữa TP Hồ Chí Minh và tám tỉnh Tây Bắc mở rộng
năm 2020 với chủ đề "Liên kết phát triển bền vững" là một điển hình.
Trước đó, TP Hồ Chí Minh đã có các hoạt động liên kết du lịch rất hiệu quả với
13 tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và năm tỉnh vùng Ðông Nam Bộ.
Ðiều quan trọng không kém là việc cơ cấu
lại sản phẩm, tạo ra sản phẩm du lịch mới lạ, độc đáo. Kinh nghiệm của hai đợt
kích cầu du lịch trong nước vừa qua là tập trung đẩy mạnh xúc tiến điểm đến, nhất
là những điểm đến mới và kết nối các điểm đến để tạo ra những sản phẩm mới lạ,
độc đáo, hấp dẫn. Với du khách, quan trọng nhất là có nhiều sản phẩm mới lạ, độc
đáo, hấp dẫn, bởi giờ đây chỉ còn tua đi du lịch trong nước, họ có nhiều sự lựa
chọn và trở nên khắt khe hơn. Khi đưa ra các sản phẩm mới, các doanh nghiệp du
lịch đồng thời cam kết về hoãn, hủy, đổi tua, dịch vụ... linh hoạt để du khách
yên tâm rằng, họ luôn được bảo đảm quyền lợi trong mọi tình huống. Ðây cũng là
bước sáng tạo của các doanh nghiệp du lịch Việt Nam trong trạng thái "bình
thường mới".
Thực hiện mục tiêu kép "vừa phòng,
chống dịch Covid-19, vừa phát triển kinh tế, xã hội", trong đó, mục tiêu
trước mắt là đề xuất các giải pháp cụ thể, khả thi để nhanh chóng phục hồi du lịch
nội địa và sẵn sàng mở cửa thị trường quốc tế khi điều kiện cho phép, là mục
tiêu căn cốt của du lịch Việt Nam.
Tại Hội nghị toàn quốc về du lịch năm
2020 với chủ đề "Liên kết, hành động và phát triển" (tổ chức tại Quảng
Nam cuối tháng 11 vừa qua), đại diện Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương và
các doanh nghiệp du lịch lớn đã cùng bàn thảo, đề xuất giải pháp nhằm vực dậy
du lịch Việt Nam sau dịch. Giải pháp trước mắt và ngắn hạn mà các doanh nghiệp
đề xuất với Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương là tiếp tục có chính sách hỗ
trợ ngành du lịch và doanh nghiệp du lịch vượt qua khó khăn trong bối cảnh dịch
bệnh. Bên cạnh đó, các nhóm giải pháp căn cơ và lâu dài cũng được bàn thảo, đề
xuất. Các chuyên gia, đại diện doanh nghiệp đồng tình với bốn nhóm giải pháp do
Bộ VHTTDL đề xuất, bao gồm: Cơ cấu lại thị trường khách du lịch theo hướng bền
vững, hiệu quả nhằm vào thị trường khách chất lượng cao, lưu trú dài ngày, chi
tiêu cao, cơ cấu thị trường theo phân đoạn nhu cầu; phát triển sản phẩm, dịch vụ
mới, liên kết đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm phù hợp với từng phân
đoạn thị trường; đẩy mạnh hợp tác công tư, liên kết vùng giữa các địa phương,
điểm đến trong hợp tác phát triển du lịch; chuyển đổi số, đặc biệt trong nghiên
cứu thị trường, cơ sở dữ liệu và xúc tiến, quảng bá du lịch. Trong các giải
pháp này, Bộ VHTTDL cho rằng, chuyển đổi số trong phát triển du lịch, nhất là
trong quản lý, kinh doanh, trong nghiên cứu thị trường, trong tiếp thị và bán sản
phẩm du lịch là yêu cầu mang tính chất sống còn. Do đó, Bộ đề xuất Chính phủ để
được giao chủ trì xây dựng Ðề án tổng thể về chuyển đổi số trong ngành du lịch
đến năm 2030...
Ðại dịch Covid-19 trên thế giới vẫn tiếp
tục diễn biến phức tạp, khó lường. Thời điểm kiểm soát được hoàn toàn dịch bệnh
trên toàn cầu (khi có vắc-xin phòng ngừa hữu hiệu) vẫn đang bỏ ngỏ. Theo dự báo
của Tổ chức du lịch thế giới, du lịch toàn cầu chỉ có thể phục hồi sớm nhất là
vào quý III năm 2021. Trong bối cảnh ấy, ngành du lịch Việt Nam đang cùng chung
tay hành động với sự đồng lòng vào cuộc của cả doanh nghiệp, địa phương và cơ
quan quản lý để cơ cấu lại, nhất là cơ cấu lại nguồn khách, cơ cấu lại sản phẩm
phù hợp để đón nhận cơ hội mới. Những đột phá, sáng tạo trong cách làm du lịch
trong thời gian chống đỡ với dịch Covid-19 vừa qua sẽ là nền tảng tạo đà để du
lịch Việt Nam tìm được thời cơ trong thách thức, chủ động đón nhận cơ hội mới
ngay sau khi hết dịch, tiếp tục khẳng định vị thế du lịch Việt Nam.
![](http://4.bp.blogspot.com/-JE_IPFlB95A/T2xOXxddz4I/AAAAAAAAA2I/sYgUF3LxUdw/s1600/tinkhac.jpg)
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét