Hồ Chí Minh với khát vọng Ðộc lập - Tự do - Hạnh phúc cho dân tộc Việt Nam
Chủ
tịch Hồ Chí Minh - Người đã dâng hiến trọn vẹn cả cuộc đời và sự nghiệp của
mình cho dân tộc Việt Nam, là hiện thân của khát vọng mãnh liệt giải phóng dân
tộc, phấn đấu đến cùng cho nền độc lập của Tổ quốc, tự do, hạnh phúc của dân tộc.
Ðây không chỉ là giải phóng dân tộc mà còn là phát triển dân tộc, đưa dân tộc
ta ra khỏi tình cảnh nô lệ, nước mất nhà tan, bị đọa đầy áp bức dưới ách thống
trị của đế quốc, thực dân, giành lại độc lập chủ quyền và xây dựng đất nước
giàu mạnh, nhân dân trở thành người chủ, có cuộc sống ấm no, tự do và hạnh
phúc.
Sau
gần một thập kỷ đầu tiên trong cuộc hành trình tìm đường cứu nước cứu dân, từ
ngày 5-6-1911 khi rời bến cảng Nhà Rồng đến năm 1920, Người đã tiếp cận tư tưởng
Lê-nin về quyền tự quyết của các dân tộc. Luận cương của Lê-nin đã giúp Người
tìm thấy câu trả lời mà Người hằng mong đợi, đã dẫn đến bước ngoặt tư tưởng và
hành động của Người. Từ một người yêu nước với tình cảm thương dân mãnh liệt và
tinh thần dân tộc sâu sắc, Người đã trở thành một chiến sĩ cộng sản. Năm 1923,
Nguyễn Ái Quốc đã lần đầu tiên đến quê hương của Cách mạng Tháng Mười và chủ
nghĩa xã hội hiện thực. Chứng kiến trực tiếp sự hồi sinh của nước Nga Xô Viết,
Nguyễn Ái Quốc đã bước đầu rút ra những thu hoạch bổ ích để xác tín một niềm
tin khoa học về chủ nghĩa xã hội, về con đường tất yếu phải đi qua để thực hiện
lý tưởng và mục tiêu cách mạng trên quê hương, đất nước mình với hệ giá trị cốt
yếu của phát triển: Ðộc lập - Tự do - Hạnh phúc cho dân tộc và nhân dân.
Nhờ
nắm vững linh hồn của chủ nghĩa Mác - Lê-nin là sự thống nhất giữa lý luận với
thực tiễn, vào những năm 1924-1925, Nguyễn Ái Quốc đã hình thành những nhận
thức cơ bản về cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản (xã hội chủ
nghĩa), về mối quan hệ khăng khít giữa cách mạng ở chính quốc với cách mạng ở
thuộc địa, về sự phát triển chủ nghĩa yêu nước chân chính và tinh thần dân tộc
với chủ nghĩa quốc tế chân chính của giai cấp công nhân. Luận điểm của Người
cho rằng, chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới có thể giải phóng
các dân tộc bị áp bức, giải phóng giai cấp công nhân và giải phóng xã hội, đem
lại ấm no, tự do, hạnh phúc của các dân tộc trên thế giới.
Năm
1930, Nguyễn Ái Quốc sáng lập Ðảng Cộng sản Việt Nam. Các Văn kiện
"Chánh cương vắn tắt của Ðảng", "Sách lược vắn tắt của Ðảng",
"Ðiều lệ tóm tắt của Ðảng Cộng sản Việt Nam" và "Lời kêu gọi"
nhân dịp thành lập Ðảng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trực tiếp soạn thảo, được thảo
luận và thông qua tại hội nghị thành lập Ðảng. Các văn kiện quan trọng đó thể
hiện tinh thần cách mạng triệt để và sáng tạo, kết hợp một cách đúng đắn và phù
hợp giữa lý luận và thực tiễn Việt Nam. Quan điểm cơ bản của các văn kiện này
có giá trị xuyên suốt con đường và mục tiêu cách mạng nước ta, đó là độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Dù
trong hình thức vắn tắt, các văn kiện thành lập Ðảng do Nguyễn Ái Quốc soạn
thảo được thông qua đã tỏ rõ bản chất giai cấp công nhân của Ðảng và tầm nhìn
thấu suốt con đường, mục tiêu cách mạng, chiến lược đại đoàn kết, sự trung
thành của Ðảng với lợi ích giai cấp và mục tiêu độc lập dân tộc, gắn chặt sự
phối hợp cách mạng nước ta với phong trào cách mạng giải phóng dân tộc của các
dân tộc bị áp bức và phong trào công nhân quốc tế. Ðó là sự thể hiện bản chất của
Ðảng cách mạng theo học thuyết Ðảng kiểu mới của Lê-nin.
Ðảng
Cộng sản Việt Nam ra đời (mà ngay từ đầu tên Ðảng do Nguyễn Ái Quốc xác định)
là sự kiện lịch sử quan trọng, đánh dấu bước ngoặt của phong trào cách mạng Việt
Nam, đây là khởi đầu dẫn tới Thời đại Hồ Chí Minh, kỷ nguyên độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội Việt Nam, chấm dứt cuộc khủng hoảng triền miên về đường lối cứu
nước từ cuối thế kỷ 19 đến thập niên 30 thế kỷ 20. Bước ngoặt ấy cũng là khởi đầu
cho sự thay đổi số phận của dân tộc ta, là dấu mốc điển hình cho sự phát triển
thành thục tư tưởng, đường lối và phương pháp cách mạng của Nguyễn Ái Quốc -
Hồ Chí Minh, dẫn tới Cách mạng Tháng Tám và sự ra đời chế độ cộng hòa dân chủ
Việt Nam với Tuyên ngôn độc lập bất hủ được Người soạn thảo và đọc tại Thủ đô
Hà Nội ngày 2-9-1945.
Hồ
Chí Minh không chỉ là nhà tư tưởng kiệt xuất phát kiến ra quy luật phát triển của
cách mạng Việt Nam trong thời đại mới là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội, tìm ra quy luật đặc thù của Ðảng Cộng sản Việt Nam, đó là sản phẩm của
sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lê-nin với phong trào công nhân và phong trào
yêu nước của nhân dân ta, mà còn là nhà tổ chức thiên tài, là linh hồn của cách
mạng Việt Nam, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc gắn liền với đoàn kết quốc tế.
Ðảng cách mạng chân chính do Người sáng lập và rèn luyện, mới 15 tuổi đã đủ sức
lãnh đạo thành công Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - một trong những cuộc cách mạng
điển hình nhất trong thế kỷ 20, chỉ sau Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917. Với
Cách mạng Tháng Tám năm 1945, một thời đại mới đã mở ra ở Việt Nam, thời đại
mang tên Người, thời đại rực rỡ huy hoàng nhất trong lịch sử hàng ngàn năm dựng
nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Vào lúc đó, đội ngũ của Ðảng chỉ năm
nghìn người đã tiên phong, chiến đấu, hy sinh đưa 20 triệu người Việt Nam thoát
khỏi ách nô lệ, trở thành người chủ và làm chủ vận mệnh của mình. Từ đây, Ðảng
do Người lãnh đạo đã chính thức trở thành Ðảng cầm quyền. Chế độ cộng hòa dân
chủ ra đời, do Người khai sinh với bản Tuyên ngôn độc lập - một áng thiên cổ
hùng văn, tuyên ngôn lập quốc, dựng nước thời hiện đại. Vị thế và quyền của dân
tộc Việt Nam, "Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm
nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Ðồng minh chống phát xít mấy năm
nay" đã được Hồ Chí Minh khẳng định: "Dân tộc đó phải được tự do! Dân
tộc đó phải được độc lập" (1). Kết thúc bản Tuyên ngôn, Hồ Chí Minh khẳng
định những quyền tự do, độc lập của Việt Nam, khẳng định sự thật lịch sử:
"Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước
tự do và độc lập".
Ðó
là những quyền thiêng liêng, những giá trị thiêng liêng: "Toàn thể dân Việt
Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững
quyền tự do và độc lập ấy".
Với
Việt Nam, đó vừa là tuyên bố chính trị - pháp lý, vừa là lời thề nguyện về
quyết tâm sắt đá, về đức hy sinh cao cả của toàn thể dân tộc để bảo vệ, giữ vững
những quyền đã giành được.
Với
thế giới, Tuyên ngôn độc lập như một thông điệp mà Chính phủ và nhân dân Việt
Nam gửi tới toàn thế giới để tỏ rõ lập trường và quan điểm, thái độ và hành động
của mình gìn giữ tự do, độc lập mới giành được.
Ðó
là sự mở đầu trong toàn bộ nỗ lực thực hiện khát vọng độc lập, tự do, hạnh phúc
cho dân tộc Việt Nam của Hồ Chí Minh trong điều kiện nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa vừa mới khai sinh, chính thể cộng hòa dân chủ vừa mới ra đời.
Nền
độc lập phải là độc lập thực chất và hoàn toàn, độc lập gắn liền với tự do. Ý
chí của Hồ Chí Minh và của toàn thể dân tộc ta là độc lập tự do thực sự và hoàn
toàn, nó không thể là cái bánh vẽ, giả hiệu. Ðộc lập trong tự do, và tự do, tự
quyết định vận mệnh của mình phải bảo đảm cho nền độc lập, thống nhất Tổ quốc.
Ðộc lập tự do phải do chính nhân dân ta chủ động đấu tranh giành lấy, không thể
chờ đợi bên ngoài, không thể thụ động, ỷ lại. Do đó, để có độc lập tự do phải
trải qua nhiều gian khổ, hy sinh, đó là sự nghiệp đấu tranh lâu dài, bền bỉ, phải
đoàn kết, hợp sức, phát huy lòng yêu nước tự bên trong và tranh thủ sự ủng hộ,
giúp đỡ từ bên ngoài của quốc tế.
Khát
vọng Ðộc lập - Tự do - Hạnh phúc cho dân tộc Việt Nam của Hồ Chí Minh còn đồng
thời là khát vọng thống nhất Tổ quốc. Trong lời tuyên bố với quốc dân ngày
23-10-1946, Hồ Chí Minh nói: "Một ngày mà Tổ quốc chưa thống nhất, đồng
bào còn chịu khổ, là một ngày tôi ăn không ngon, ngủ không yên. Tôi trân trọng
hứa với đồng bào rằng; Với quyết tâm của đồng bào, với quyết tâm của toàn thể
nhân dân, Nam Bộ nhất định trở lại cùng thân ái chung trong lòng Tổ quốc". Người cũng nêu lên những việc phải làm ngay để tạo không khí hòa bình, và
xây đắp con đường dân chủ để đi tới sự nghiệp Việt Nam thống nhất của chúng ta.
Ðối
với Người, độc lập dân tộc không tách rời với thống nhất Tổ quốc và độc lập, thống
nhất Tổ quốc, gắn với tự do, hạnh phúc của nhân dân. Người đã nhiều lần nhắc nhở
chúng ta "nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập
cũng chẳng có nghĩa lý gì".
Người
đã nỗ lực hết mình, làm hết sức mình cùng với Ðảng và Chính phủ do Người lãnh đạo
thực hành cho bằng được những tư tưởng cao quý đó. Nội các Chính phủ do Người đứng
đầu đã từng tuyên thệ, đã đọc lời thề trung thành với Tổ quốc, phấn đấu đến
cùng cho lợi quyền dân chúng, dù có phải hy sinh cả tính mạng cũng sẵn sàng.
Trên diễn đàn Quốc hội tại kỳ họp thứ hai, khóa I, ngày 31-10-1946, Người
tuyên bố trước quốc dân và quốc tế rằng, "Hồ Chí Minh không phải là kẻ
tham quyền cố vị, mong được thăng quan phát tài". Người cũng nhấn mạnh,
"Chính phủ sau đây phải là một Chính phủ toàn dân đoàn kết và tập hợp nhân
tài không đảng phái... Chính phủ sau đây phải là một Chính phủ liêm khiết... một
Chính phủ biết làm việc, có gan góc, quyết tâm đi vào mục đích trong thì kiến
thiết, ngoài thì tranh thủ độc lập và thống nhất của nước nhà". Là điển
hình cho đức tính kiên quyết và nhất quán, lời nói luôn đi đôi với việc làm, chủ
trương lãnh đạo bằng chính phẩm chất gương mẫu, tận tụy, liêm khiết và hy sinh,
Hồ Chí Minh và Chính phủ do Người lãnh đạo đã tỏ rõ sự nỗ lực cao độ để thực hiện
khát vọng Ðộc lập - Tự do - Hạnh phúc cho dân tộc Việt Nam.
Vào
cuối đời, ngày 14-7-1969, khi trả lời nhà báo Cu-ba, nữ đồng chí Mác-ta Rô-hát,
Người nói "Tôi hiến cả đời tôi cho dân tộc tôi". Ðủ hiểu vì sao,
trên giường bệnh, trước phút lâm chung, Người vẫn đau đáu chờ tin chiến thắng
trên chiến trường miền nam, Người vẫn hỏi về đời sống nhân dân, nhất là nông
dân ở nông thôn trong những ngày đê vỡ, lũ lụt. Người vẫn quan tâm tới Tết
Trung thu của các cháu thiếu nhi và việc chuẩn bị cho ngày khai giảng năm học mới
của các cháu. Trong Di chúc ở những dòng cuối cùng, Người ra đi không có gì phải
hối hận vì đã sống hết mình, đã phục vụ hết mình cho dân, cho nước. Người chỉ
có điều tiếc nuối, "không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa".
Tâm
nguyện của Người, điều mong muốn cuối cùng của Người ký thác vào toàn dân, toàn
Ðảng là "một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu
mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới". Tâm
nguyện ấy là khát vọng của Người, là thực hiện khát vọng cho dân tộc Việt Nam:
Ðộc lập - Tự do - Hạnh phúc.
Người
đã cống hiến cả cuộc đời mình, hy sinh cả cuộc sống riêng tư, hạnh phúc riêng
tư để trọn đời tranh đấu cho hạnh phúc lớn lao của toàn dân tộc, của cả nhân loại
cần lao. Người biểu đạt trí tuệ, lương tâm, khí phách của toàn dân tộc, là
"hình ảnh của dân tộc".
Người
không chỉ thể hiện khát vọng dân tộc mà còn là người thực hiện khát vọng ấy,
toàn tâm toàn ý vì vận mệnh của dân tộc, vì cuộc sống của nhân dân. Ðã 110 năm
kể từ ngày Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước. Ðã 80 năm kể từ khi
Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Cũng đã hơn nửa thế kỷ,
Hồ Chí Minh để lại bản Di chúc thiêng liêng. Tư tưởng và di sản vĩ đại mà Người
để lại cho toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân ta đang tiếp tục được phát huy trong
sự nghiệp đổi mới, để đất nước phát triển nhanh và bền vững, dân tộc cường thịnh,
trường tồn, sánh vai cùng các cường quốc năm châu như sinh thời Người vẫn hằng
mong.
GS,
TS HOÀNG CHÍ BẢO
Chuyên
gia cao cấp, Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương

- 美国国务院年度人权报告的荒谬之处
- Điều phi lý trong báo cáo nhân quyền hằng năm của Bộ Ngoại giao Mỹ
- 驳斥对社会主义定向市场经济的错误、敌对观点
- Đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch về nền kinh tế thị trường XHCN trong tình hình mới
- 越南继续主动、积极为促进世界人权事业贡献力量
- Việt Nam tiếp tục chủ động đóng góp thúc đẩy nhân quyền trên thế giới
- 中央会议就国家重大问题作出结论
- Hội nghị Trung ương kết luận những vấn đề quan trọng của đất nước
- 越南社会主义法权国家的本质是不可歪曲的
- Không thể xuyên tạc bản chất Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
- 越南增长前景乐观
- 胡志明主席的遗产具有普遍性、时事性和超越时代价值
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét