Không thể phủ nhận vai trò của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
Thực tiễn 35 năm đổi mới đã chứng minh, phát huy vai
trò chủ đạo của kinh tế nhà nước góp phần quan trọng thúc đẩy “Nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục phát triển; kinh tế vĩ mô ổn định,
vững chắc hơn, các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm, tốc độ tăng trưởng
duy trì ở mức khá cao; quy mô và tiềm lực nền kinh tế tăng lên, chất lượng tăng
trưởng được cải thiện”1. Đây là điều không thể xuyên tạc, phủ nhận.
Núp bóng danh nghĩa “chuyên gia kinh tế”, “doanh
nhân thành đạt”, “đại diện hợp pháp”,… của cộng đồng doanh nghiệp, người dân và
triệt để lợi dụng hạn chế, yếu kém của một số doanh nghiệp nhà nước trong sản
xuất, kinh doanh, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị đẩy mạnh hoạt động chống
phá đường lối đổi mới kinh tế của Đảng, Nhà nước ta. Một trong những trọng điểm
xuyên tạc là: phủ nhận vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, nhằm phủ nhận chế
độ sở hữu về tư liệu sản xuất, bản chất nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Họ cho rằng: kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo
sẽ thủ tiêu cạnh tranh, phân biệt đối xử với các thành phần kinh tế khác; sự thể
hiện vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước đối với nền kinh tế là mơ hồ, thiếu
thực tế,… nhằm tạo tâm lý hoài nghi, gây mất lòng tin của cán bộ, đảng viên và
nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước đối với nền
kinh tế. Tuy nhiên, thực tiễn phát triển kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa sau 35 năm đổi mới đã chứng minh những luận
điệu trên là không có cơ sở, bởi:
Thứ nhất, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không thủ tiêu cạnh tranh. Nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là “nền kinh tế thị
trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của
kinh tế thị trường”2; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo không phủ định cạnh
tranh mà còn là nhân tố thúc đẩy sự cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần
kinh tế. Quá trình đổi mới, hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế đặt ra
yêu cầu khách quan phải tôn trọng và thực hiện đầy đủ các quy luật kinh tế thị
trường. Đến nay, Việt Nam đã ký kết và triển khai hiệu quả 14 hiệp định thương
mại tự do (FTA), trong đó có các hiệp định tiêu chuẩn cao, như CPTPP, EVFTA,
v.v. Theo đánh giá của Diễn đàn kinh tế thế giới, chỉ số năng lực cạnh tranh
toàn cầu (GCI) của Việt Nam năm 2019 đứng thứ 67/137 nền kinh tế3. Điều đó cho
thấy, dù kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo nhưng sự cạnh tranh của nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta không kém phần quyết liệt.
Các doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế nhà nước hoạt động
chủ yếu trong những lĩnh vực mà doanh nghiệp tư nhân không muốn làm và không
làm được, hoặc đóng vai trò dẫn dắt, khai phá những lĩnh vực quan trọng đối với
nền kinh tế, như: quốc phòng, an ninh, năng lượng, sân bay, cảng biển, hạ tầng
giao thông,… tham gia cung ứng các sản phẩm dịch vụ công ích nhưng vẫn bảo đảm
tuân thủ nguyên tắc thị trường, bình đẳng với các doanh nghiệp khác. Đảng ta chủ
trương các doanh nghiệp nhà nước phải: “hoạt động theo cơ chế thị trường, quản
trị hiện đại theo chuẩn mực quốc tế; lấy hiệu quả sản xuất, kinh doanh làm tiêu
chí đánh giá chủ yếu, cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế”4. Điều đó cho thấy, Đảng và Nhà nước ta không ưu ái doanh nghiệp nhà
nước và phân biệt đối xử với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế
khác. Doanh nghiệp nhà nước hoạt động theo cơ chế tự chủ sản xuất, kinh doanh,
cạnh tranh bình đẳng, công khai, minh bạch, chịu sự điều tiết của các quy luật
kinh tế thị trường và thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong quá trình cổ phần hóa, đổi mới, sắp xếp lại hệ thống doanh nghiệp nhà nước,
Chính phủ chủ trương thoái vốn và nhường lại thị phần ở các lĩnh vực mà doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác có khả năng hoạt động đạt hiệu quả sản
xuất, kinh doanh cao, như: thương mại tiêu dùng, dịch vụ, du lịch, vận tải,
v.v. Đồng thời, thực hiện nghiêm chủ trương “Xóa bỏ cơ chế can thiệp hành chính
trực tiếp, bao cấp dành cho doanh nghiệp nhà nước, đối xử bình đẳng với doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, nhất là trong tiếp cận các nguồn lực
nhà nước, tín dụng, đất đai, tài nguyên, cơ hội đầu tư, kinh doanh, tài chính,
thuế,…”5 gắn với đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, hoàn thiện thể chế kinh
tế thị trường. Đó là minh chứng việc: Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm, khuyến
khích, tạo điều kiện thuận lợi để mọi thành phần kinh tế cạnh tranh bình đẳng,
cùng phát triển; trong đó, kinh tế tư nhân được phát triển ở tất cả các ngành,
lĩnh vực mà pháp luật không cấm.
Các yếu tố trên đã tạo động lực thúc đẩy sự phát triển
khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước, như: có 591.499 doanh nghiệp đang hoạt động
có hiệu quả, chiếm 96,9% trong tổng số doanh nghiệp của cả nước; gấp nhiều lần
so với số liệu tương ứng của doanh nghiệp nhà nước là 2.260 doanh nghiệp và
0,4%6. Riêng Quý I và tháng 4/2021, có 44.166 doanh nghiệp thành lập mới,
21.381 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động; trong đó, doanh nghiệp quy mô vốn đầu
tư trên 100 tỉ đồng là 465 doanh nghiệp, tăng 33,2% so với cùng kỳ năm 20207.
Việc kinh tế tư nhân tham gia các lĩnh vực nền tảng của nền kinh tế, như: công
nghiệp chế tạo, công nghệ cao, xây dựng đường cao tốc, sân bay, cảng biển, năng
lượng tái tạo, truyền tải điện, logistics,… ngày càng khẳng định vai trò là một
trong những động lực quan trọng của nền kinh tế. Trong đó, nhiều doanh nhiệp, tập
đoàn đã khẳng định thương hiệu đối với thị trường trong nước và quốc tế, như:
Vingroup, Thế giới di động, Hòa Phát, Vietjet, VP bank, v.v. Đây là minh chứng
không thể chối cãi về chủ trương kiến tạo, xây dựng môi trường cạnh tranh lành
mạnh, bình đẳng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng
và Nhà nước ta.
Thứ hai, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước ngày
càng được khẳng định và phát huy; thực sự là công cụ, lực lượng vật chất để Nhà
nước ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng, điều tiết, dẫn dắt, thúc đẩy phát triển
kinh tế, xã hội, khắc phục các khuyết tật của kinh tế thị trường. Các doanh
nghiệp, tập đoàn kinh tế nhà nước nắm giữ tỷ trọng đa số hoặc có vị trí chi phối
một số ngành, lĩnh vực nền tảng của nền kinh tế, như: 25% vốn điều lệ, 48% thị
phần huy động vốn và 50% thị phần cho vay của toàn hệ thống tín dụng; 86% sản
lượng điện phát vào mạng lưới, 97% sản lượng than sạch, 100% sản lượng dầu thô,
85% thị phần bán lẻ xăng dầu8, v.v.
Trong điều kiện thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu
tác động tiêu cực tới kinh tế - xã hội mọi quốc gia trên thế giới, nhưng tốc độ
tăng trưởng GDP của Việt Nam giai đoạn 2016 - 2019 đạt khá cao, bình quân
6,8%/năm9. Đặc biệt, năm 2020, với sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt của Chính
phủ, tăng trưởng GDP vẫn đạt 2,91%, thuộc nhóm cao nhất thế giới; quy mô GDP đạt
trên 340 tỉ USD10, tương đương với thu nhập bình quân/người đạt hơn 3.500 USD.
Các chỉ số phát triển kinh tế - xã hội được duy trì ổn định, như: tỷ giá, thị
trường ngoại hối ổn định, cán cân thanh toán thặng dư (xuất siêu 5 năm liên tiếp);
tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn đa chiều giảm từ gần 10% năm 2015 xuống dưới 03% năm
2020; tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế tăng từ 76% năm 2015 lên 90,7% dân số năm
2020;… nhiều công trình hạ tầng về giao thông, năng lượng, thủy lợi, đô thị,
khu công nghiệp, thông tin truyền thông, y tế, giáo dục,… được hoàn thiện, đưa
vào khai thác, sử dụng tạo thêm năng lực cạnh tranh và diện mạo mới cho nền
kinh tế11. Kinh tế nhà nước còn là công cụ, lực lượng vật chất quan trọng bảo đảm
quốc phòng, an ninh, xây dựng cơ sở hạ tầng, an sinh xã hội,… tạo cơ sở nền tảng
vững chắc để Việt Nam thực hiện thành công “mục tiêu kép” vừa quyết liệt phòng,
chống dịch Covid-19 với tinh thần “chống dịch như chống giặc”, vừa tập trung phục
hồi và phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ ba, đa số doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế nhà nước
khẳng định vị trí đầu tàu về hiệu quả sản xuất, kinh doanh, phát huy tốt vai
trò là công cụ, lực lượng vật chất để Chính phủ điều tiết nền kinh tế, bảo đảm
thực hiện có hiệu quả các chính sách ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát,
tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước, đóng góp quan trọng cho phát triển kinh tế
- xã hội, thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh và chính sách an sinh xã hội.
Số liệu thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư công bố năm 2020 cho thấy: tuy chỉ
chiếm 0,4% trong tổng số doanh nghiệp cả nước nhưng doanh nghiệp nhà nước huy động,
thu hút vốn cho sản xuất, kinh doanh đạt 9,65 triệu tỉ đồng, doanh thu cao nhất
với 13,41 triệu tỉ đồng, lợi nhuận trước thuế đạt 323,64 nghìn tỉ đồng (chiếm tỉ
lệ tương ứng là 24,8%, 56,7% và 36,1% của toàn bộ doanh nghiệp); trong khi đó,
doanh nghiệp ngoài nhà nước chiếm 96% tổng số doanh nghiệp cả nước nhưng chỉ
thu hút được 22,25 triệu tỉ đồng vốn cho sản xuất, kinh doanh, doanh thu đạt
3,41 triệu tỉ đồng, lợi nhuận trước thuế đạt 190,36 nghìn tỉ đồng (chiếm tỉ lệ
tương ứng là 57,2%, 14,4% và 21,3%); thu nhập bình quân tháng một lao động của
doanh nghiệp nhà nước đạt 12,56 triệu đồng, còn doanh nghiệp ngoài nhà nước chỉ
đạt 7,87 triệu đồng12. Theo số liệu thống kê của Công ty Cổ phần Báo cáo Đánh
giá Việt Nam (Vietnam Report JSC. - VNR) công bố TOP 500 doanh nghiệp lớn nhất
Việt Nam năm 2020 thì có đến 07 doanh nghiệp nhà nước thuộc nhóm 10 doanh nghiệp
hàng đầu13.
Sự thực trên là minh chứng rõ nét về vai trò chủ đạo
của kinh tế nhà nước; đồng thời, củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo
của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với quá trình phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát vọng của toàn Đảng, toàn dân
và toàn quân vào sự phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Và tự nó bác bỏ mọi
phủ nhận, mọi xuyên tạc.

- 批评“越南走向资本主义才能发展且顺应时代潮流”的观点
- Phê phán quan điểm “Việt Nam đi theo chủ nghĩa tư bản mới phát triển và phù hợp với xu thế thời đại”
- 越南在实施人权进程中的努力
- Nỗ lực của Việt Nam trong trong thực hiện quyền con người
- 灵活应对 坚决行动 促进恢复和发展
- Ứng phó linh hoạt, quyết tâm hành động để thúc đẩy phục hồi và phát triển
- 新闻自由必须在法律框架内
- Tự do báo chí phải trong khuôn khổ của pháp luật
- 为越南继续促进性别平等奠定坚实基础
- Nền tảng vững chắc để Việt Nam tiếp tục thúc đẩy bình đẳng giới
- 必须停止对越南宗教的颠倒黑白、混淆是非的论调
- Cần chấm dứt những luận điệu 'đổi trắng thay đen'
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét