Không thể xuyên tạc bản chất Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
Lợi dụng việc xây dựng
Đề án “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045”, trên mạng xã hội đã xuất hiện
một số thông tin cho rằng, việc thực hiện Đề án đó là không thực tế; cần phải
bác bỏ.
Họ cho rằng: Nhà nước
pháp quyền là sản phẩm, thành tựu của chủ nghĩa tư bản, do đó không thể lấy
thành tựu đó “gán ghép” vào chủ nghĩa xã hội; khi nhắc đến chủ nghĩa xã hội thì
phải gắn liền với “chuyên chính vô sản”, “Đảng trị”, v.v. Do vậy, việc xây dựng
và thực hiện Đề án “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045” tất yếu sẽ thất bại,
hao tổn tài sản và nguồn lực của đất nước. Từ đó, họ lặp lại “điệp khúc”: chỉ
khi nào “xóa bỏ” chế độ xã hội chủ nghĩa thì mới có thể xây dựng thành công nhà
nước pháp quyền. Những luận điệu trên là phi lý, hoàn toàn sai cả về lý luận và
thực tiễn về nhà nước pháp quyền nói chung, nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa nói riêng.
Thứ nhất, quan điểm cho
rằng nhà nước pháp quyền là sản phẩm, thành tựu của chủ nghĩa tư bản là một
quan điểm hoàn toàn sai, tự biện và duy ý chí. Tư tưởng về nhà nước pháp quyền
đã hình thành và thể hiện trong quan điểm của các nhà tư tưởng từ thời cổ đại. Ở
phương Đông, đó được xem là tư tưởng pháp trị của các nhà pháp gia, như: Quản
Trọng, Thương Ưởng, Hàn Phi, v.v. Quản Trọng chủ trương đề cao “Luật, lệnh,
hình, chính”, vua phải giữ pháp, “không vì vua muốn mà thay đổi lệnh, lệnh đáng
tôn hơn vua”. Hàn Phi coi pháp là chuẩn mực cao nhất của việc cai trị đất nước,
khi thi hành pháp luật thì không kể đến tình cảm riêng, không câu nệ chuyện
thân sơ, sang hèn, tất cả đều bình đẳng trước pháp luật: “pháp luật không hùa
theo người sang. Sợi dây dọi không uốn mình theo cây gỗ cong. Khi đã thi hành
pháp luật thì kẻ khôn cũng không thể từ, kẻ dũng cũng không dám tranh. Trừng trị
cái sai không tránh kẻ đại thần, thưởng cái đúng không bỏ sót kẻ thất phu”. Ở
phương Tây, điển hình là: Xô-crát (469 - 399 Tr.CN), Arixtốt (384 - 322 Tr.CN),
Xixêrôn (l06 - 43 Tr.CN). Những tư tưởng này đã được các nhà tư tưởng chính trị
và pháp lý tư bản sau này như: John Locke (1632 - 1704), Montesquieu (1698 -
1755), J.J.Rút-xô (1712 - 1778), I.Kant (1724 - 1804), Hêghen (1770 - 1831),…
phát triển như một thế giới quan pháp lý mới. Cùng với các nhà lý luận nổi tiếng
nói trên, nhiều nhà luật học, nhà tư tưởng vĩ đại khác cũng đã góp phần phát
triển các tư tưởng về nhà nước pháp quyền như Tômát Jepphecxơn (1743 - 1826 -
tác giả của Tuyên ngôn độc lập Mỹ năm 1776), Tômát Pên (1737 - 1809), Jôn A đam
(1735 - 1826), v.v.
Như vậy, tư tưởng về
nhà nước pháp quyền có từ rất sớm, có trước chủ nghĩa tư bản; nó là sản phẩm của
nhân loại. Do đó, nhà nước ấy phải có tính từ: nhà nước pháp quyền tư bản chủ
nghĩa, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng về nhà nước pháp quyền
không chỉ có đóng góp của các triết gia trước tư sản, mà còn có sự đóng góp của
những nhà kinh điển của chủ nghĩa xã hội. C.Mác, Ph.Ăgghen và VI.Lênin dù không
chính thức nói đến nhà nước pháp quyền như là một trong những nội dung chính yếu
trong học thuyết của mình, nhưng các ông luôn quan tâm đến Nhà nước và cách mạng,
Nhà nước và pháp luật. Trong các bài viết, bài nói, họ đã thể hiện tư tưởng về
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăgghen được thể
hiện trong các tác phẩm: “Sự khốn cùng của triết học”, “Phê phán triết học pháp
quyền Hegel”,v.v. C.Mác chỉ ra cơ sở xã hội như nền tảng vật chất của pháp luật;
Ông cho rằng “chế độ dân chủ không phải con người tồn tại vì luật pháp mà luật
pháp tồn tại vì con nguời”. Ph.Ăghen viết: “đối với chúng ta,… điều bất di bất
dịch là quan hệ giữa người cầm quyền và người bị lãnh đạo phải được thiết lập
trên cở sở pháp luật”1. VI.Lênin tiếp thu, phát triển tư tưởng của C.Mác,
Ph.Ăgghen và đưa học thuyết của các Ông đến mức độ hoàn bị hơn. VI.Lênin nói:
“Nếu không rơi vào không tưởng thì không thể nghĩ rằng sau khi lật đổ chủ nghĩa
tư bản, người ta tức khắc có thể làm việc cho chủ nghĩa xã hội mà không cần phải
có một tiêu chuẩn pháp quyền nào cả”. Trong xây dựng Nhà nước Xô viết, VI.Lênin
nhiều lần đòi hỏi bộ máy chính quyền phải thật sự là của nhân dân lao động, phải
thật sự bảo đảm dân chủ, phải dùng pháp luật (pháp luật Xô viết) để đấu tranh
chống sự lề mề, quan liêu, hối lộ (tức là phải sử dụng pháp luật, đưa pháp luật
lên trên hết)2, v.v. Như vậy, các nhà kinh điển của chủ nghĩa xã hội dù không
xem nhà nước pháp quyền là bộ phận trong học thuyết của mình, nhưng trong toàn
bộ học thuyết vĩ đại ấy đã thể hiện quan điểm về những yếu tố pháp quyền, góp
phần làm phong phú tư tưởng về nhà nước pháp quyền và đặt ra những ý tưởng mầm
mống về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Thực tiễn lịch sử nhân
loại minh chứng, nhà nước pháp quyền ngoài các giá trị phổ biến còn bao hàm các
giá trị đặc thù của mỗi quốc gia, dân tộc. Tính đặc thù của nhà nước pháp quyền
được xác định bởi hàng loạt yếu tố. Các yếu tố này về thực chất là rất đa dạng,
phong phú và phức tạp, được xác định bởi các điều kiện về lịch sử, truyền thống
- văn hóa, tâm lý xã hội của mỗi dân tộc, các chế độ chính trị, chế độ kinh tế,
văn hóa và môi trường địa lý. Vì thế, không thể có một nhà nước pháp quyền
chung chung như một mô hình chung thống nhất cho mọi quốc gia, dân tộc. Mỗi quốc
gia, dân tộc, tùy thuộc vào các đặc điểm lịch sử, chính trị, kinh tế - xã hội
và trình độ phát triển mà xây dựng cho mình một mô hình nhà nước pháp quyền
thích hợp. Do vậy, nói nhà nước pháp quyền là sản phẩm, là thành tựu của chủ
nghĩa tư bản là một quan điểm hoàn toàn sai lầm.
Thứ hai, Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam được hình thành và phát triển gắn liền với những
cơ sở lý luận và thực tiễn vững chắc. Quan điểm của Đảng ta về Nhà nước pháp
quyền và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là quá trình
đúc kết, kế thừa có chọn lọc tư tưởng nhà nước pháp quyền trong lịch sử tư tưởng
nhân loại và là sự vận dụng sáng tạo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về nhà nước kiểu mới vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể ở nước ta.
Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề Nhà nước và pháp luật giữ một vị trí
đặc biệt quan trọng và có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp xây dựng nhà nước kiểu
mới của dân, do dân, vì dân. Theo tư tưởng của Người, nhân dân là chủ thể tối
cao và duy nhất của quyền lực Nhà nước. Toàn bộ quyền lực Nhà nước đều bắt nguồn
từ nhân dân. Điều 1, Hiến pháp 1946 do Người làm Trưởng ban soạn thảo, khẳng định:
“Nước Việt Nam là một nước Dân chủ Cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nước là của
toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo,
giai cấp, tôn giáo”.
Quan điểm của Ðảng ta về
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được thể hiện xuyên suốt trong quá trình
lãnh đạo cách mạng. Đó là xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân, gắn bó chặt chẽ với nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân,
dân tộc. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, do Đảng Cộng sản lãnh đạo”, được
cụ thể hóa tại Khoản 1, Điều 2, Hiến pháp năm 2013: “Nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do
Nhân dân, vì Nhân dân”. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh:
“Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh,
tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ và vì sự phát triển
của đất nước là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị...”.
Vấn đề xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã được khẳng định trong các bản Hiến pháp của Việt
Nam. Với Hiến pháp năm 1946, chủ nghĩa lập hiến và quyền con người từ các giá
trị tư tưởng đã trở thành các giá trị pháp luật hiện thực trong điều kiện lịch
sử cụ thể của Việt Nam. Những quy định của Hiến pháp năm 1946 là những chuẩn mực
hiến định đầu tiên cho việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Đã hơn 75
năm qua, 5 bản Hiến pháp đã lần lượt tương ứng với các giai đoạn phát triển của
cách mạng nước ta. Vượt lên tất cả sự thăng trầm, phức tạp của thời cuộc, mỗi bản
Hiến pháp (các năm 1946, 1959, 1980, 1992, 2013) là một mốc quan trọng trong
quá trình xây dựng và củng cố Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của chúng
ta.
Thứ ba, thực tiễn xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã đạt được những kết quả tích cực,
có bước phát triển mới. Cụ thể: hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước được nâng
lên; nội dung, phương thức quản lý nhà nước từng bước điều chỉnh phù hợp hơn với
yêu cầu phát triển đất nước và thông lệ quốc tế. Tổ chức bộ máy nhà nước từng
bước được kiện toàn theo hướng tinh giản biên chế, bước đầu đạt được những kết
quả quan trọng. Kỷ luật, kỷ cương trong các cơ quan hành chính nhà nước được
tăng cường. Thực hiện công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình, đối thoại,
tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo; tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con
người, quyền công dân.
Những đặc điểm riêng có
của Việt Nam, gồm: sự lãnh đạo của Đảng, truyền thống dân tộc và kinh nghiệm,
khả năng ứng phó thách thức là những yếu tố mang tính then chốt để Việt Nam vượt
qua thách thức toàn cầu chưa từng có. Với thực hiện mục tiêu “kép” vừa phát triển
kinh tế, vừa phòng, chống COVID-19 hiệu quả, đã chứng minh tính ưu việt của chế
độ, khả năng quản trị quốc gia tốt, bản lĩnh và khả năng ứng phó với thách thức
của Đảng và Nhà nước ta. Nó góp phần làm sáng tỏ cả về lý luận và thực tiễn rằng,
toàn Đảng, toàn dân ta đang đi đúng hướng trong việc xây dựng chế độ xã hội chủ
nghĩa mang đặc điểm Việt Nam. Đồng thời, phản bác mọi xuyên tạc của các thế lực
thù địch về bản chất của chế độ ta, tính hiệu lực, hiệu quả của Đảng và Nhà nước
ta.
Từ những vấn đề lý luận
và thực tiễn trên cho thấy: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa khác về bản chất
với nhà nước pháp quyền tư sản. Pháp quyền dưới chủ nghĩa tư bản, về thực chất,
là công cụ bảo vệ và phục vụ lợi ích của giai cấp tư sản, còn pháp quyền dưới
chủ nghĩa xã hội là công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo
vệ lợi ích của đại đa số nhân dân. Thông qua thực thi pháp luật, Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa thể hiện nhân dân là chủ thể của quyền lực chính trị, thực
hiện chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và nhân dân.
Hiện nay, tình hình thế
giới, khu vực diễn biến rất nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo. Đất nước ta đang
thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng với những mục tiêu và khát vọng đưa
nước ta trở thành một nước phát triển có thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ
nghĩa vào giữa thế kỷ XXI. Trong bối cảnh đó, việc thực hiện Đề án “Chiến lược
xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm
2030, định hướng đến năm 2045” dưới sự lãnh đạo của Đảng là một xu thế khách
quan, mang tính quy luật; tạo sự đồng thuận và quy tụ sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc phấn đấu vì một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh”.
(Nguồn: QĐND)
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét