Lật tẩy thủ đoạn xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công cuộc xây dựng đất nước
Xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam đối với công cuộc xây dựng, phát triển đất nước là một thủ đoạn
thâm hiểm của các thế lực thù địch. Đấu tranh, vạch trần thủ đoạn đó là góp phần
bảo vệ Đảng, bảo vệ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Nhận thấy sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam là nhân tố quyết định chiều hướng đất nước phát triển theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, các thế lực thù địch thường xuyên thực hiện thủ đoạn xuyên tạc, phủ
nhận vai trò lãnh đạo của Đảng với nhiều luận điệu tinh vi, thâm hiểm. Một mặt,
họ thẳng thừng đòi bỏ Điều 4, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
(2013) quy định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và
xã hội; mặt khác, họ khéo léo che đậy mục tiêu thực sự của mình khi lập luận rằng:
“Đảng Cộng sản Việt Nam có công trong sự nghiệp giải phóng dân tộc; nhưng không
có khả năng lãnh đạo sự nghiệp xây dựng đất nước trong bối cảnh toàn cầu
hóa”(!). Để củng cố lập luận trên, họ cho rằng: “Đảng Cộng sản Việt Nam giỏi
lãnh đạo trong chiến tranh, nhưng không có kỹ năng lãnh đạo phát triển kinh tế,
xã hội trong thời bình”(!). Từ đây, họ kết luận: “Đảng Cộng sản Việt Nam đã hết
vai trò lịch sử, do đó cần trao vai trò lãnh đạo công cuộc xây dựng, phát triển
đất nước cho các lực lượng chính trị khác”(!), thực chất là đòi trao cho các thế
lực chống đối con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Những luận điệu
này được họ lặp đi, lặp lại nhiều lần, dưới nhiều hình thức, trong nhiều thời
điểm khác nhau, nhất là vào thời gian Đảng ta tiến hành đại hội nhiệm kỳ, hay
những lúc tình hình kinh tế - xã hội của đất nước gặp khó khăn, hoặc trong những
ngày kỷ niệm lớn của Đảng, của đất nước. Họ hy vọng tác động của những luận điệu
đó sẽ góp phần thúc đẩy sự “suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống”,
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, dẫn đến Đảng
ta tự tan rã.
Mục tiêu thực sự của các luận điệu trên đều
hướng vào xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước
và xã hội; cổ súy cho “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” ở Việt Nam. Sâu xa
hơn, là nhằm xóa bỏ mọi thành quả cách mạng và con đường xây dựng chủ nghĩa xã
hội của nhân dân ta; hướng lái sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước hiện
nay theo con đường tư bản chủ nghĩa. Bởi theo họ, nếu Đảng Cộng sản không còn
giữ vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội, thì tất yếu đất nước sẽ không phát triển
theo con đường xã hội chủ nghĩa. Đây là điều mà các thế lực thù địch, chống đối
từng thành công ở Liên Xô trong thập niên cuối của thế kỷ trước và họ hy vọng sẽ
thành công ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, những thành tựu của sự nghiệp xây dựng,
phát triển nước Việt Nam thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhất là trong suốt
35 năm thực hiện công cuộc đổi mới là thực tiễn sinh động bác bỏ mọi xuyên tạc,
phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với công cuộc xây dựng,
phát triển đất nước.
Nhìn lại quãng thời gian 10 năm sau chiến
tranh giải phóng (1975 - 1985), đất nước rơi vào khủng hoảng kinh tế - xã hội
nghiêm trọng. Nguyên nhân một phần do điểm xuất phát của chúng ta về kinh tế là
một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, kém phát triển, lại chịu hậu quả nặng nề của
chiến tranh; cùng với đó, do chính sách bao vây, cấm vận kinh tế của Mỹ và các
nước phương Tây; “song chủ yếu là do chúng ta đã phạm sai lầm chủ quan, duy ý
chí, vi phạm quy luật khách quan trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, trong tiến
trình công nghiệp hóa và trong cơ chế quản lý kinh tế”1. Với tinh thần “nhìn thẳng
vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, tại Đại hội VI, Đảng ta đã
nghiêm túc tự phê bình, nhận khuyết điểm, chủ động đề ra và lãnh đạo thực hiện
đường lối đổi mới theo hướng xóa bỏ cơ chế quản lý kế hoạch hóa tập trung quan
liêu, bao cấp, chuyển sang phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, có sự
quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa; thực hiện đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng
hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Nhờ thực hiện đường lối đổi mới đúng đắn
trong hơn 35 năm qua, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý
nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với trước thời kỳ đổi mới. Thế
bị bao vây, cấm vận được phá bỏ. Đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội
và tình trạng nước nghèo, kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có mức
thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc
tế. Kinh tế tăng trưởng trung bình khoảng 07% mỗi năm trong suốt 35 năm qua.
Quy mô và tiềm lực kinh tế của đất nước từ chỗ chỉ đạt 6,3 tỉ USD vào năm 1989
đã không ngừng tăng lên, đạt 342,7 tỉ USD vào năm 2020, đứng trong tốp 40 nền
kinh tế lớn nhất thế giới và đứng thứ tư trong ASEAN. Kim ngạch xuất khẩu năm
1990 mới chỉ đạt 2,4 tỉ USD, thì năm 2020 đã đạt hơn 280 tỉ USD, tăng gần 120 lần
trong vòng 30 năm. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội của đất nước phát triển khá
nhanh với nhiều công trình lớn, hiện đại, làm cho diện mạo của đất nước có nhiều
thay đổi, tiến bộ. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, với công nghiệp và dịch vụ chiếm khoảng 85% GDP hiện nay. Nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành và phát triển,
đã có 79 nước công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường. Năm 2021, mặc dù chịu
tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19, song do những nỗ lực của cả hệ thống
chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự gắng sức của các doanh nghiệp, các tầng
lớp nhân dân, sau hơn một tháng thực hiện Nghị quyết số 128/NQ-CP của Chính phủ
về “Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19”, nền kinh tế
đã có dấu hiệu phục hồi mạnh mẽ. Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 11/2021 tăng
5,6% so với cùng kỳ năm trước; tính chung 11 tháng năm 2021, tăng 3,6% so với cùng
kỳ năm 2020. Số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới tháng 11 so với tháng trước
tăng 44,6% về số doanh nghiệp, 38% về vốn đăng ký, 30,2% về số lao động. Thu
hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tiếp tục phục hồi. Tính đến ngày
20/11/2021, vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua
cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 26,46 tỉ USD, tăng 0,1% so với cùng kỳ
năm trước. Điều đó cho thấy nhà đầu tư nước ngoài tiếp tục tin tưởng vào môi
trường đầu tư Việt Nam. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu 11 tháng năm 2021 vẫn duy
trì tốc độ tăng cao, đạt 599,12 tỉ USD, tăng 22,3% so với cùng kỳ năm trước;
trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt 299,67
tỉ USD, tăng 17,5% so với cùng kỳ năm trước.
Quan hệ đối ngoại của nước ta ngày càng rộng
mở và đi vào chiều sâu; từng bước chuyển từ “tham gia tích cực” sang “chủ động
đóng góp xây dựng, định hình luật chơi chung”. Đến nay, nước ta đã có quan hệ
ngoại giao với hầu hết các quốc gia thành viên Liên hợp quốc; thiết lập quan hệ
đối tác chiến lược với 16 nước, đối tác toàn diện với 11 nước, bao gồm cả 05 nước
Thường trực Hội đồng Bảo an; có quan hệ kinh tế - thương mại và đầu tư với 230
nước và vùng lãnh thổ; là thành viên của nhiều định chế kinh tế quốc tế lớn,
như: Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc
tế (IMF), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB), v.v. Nước ta đã hai lần đảm nhận vị
trí Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2008 -
2009, 2020 - 2021) và còn đảm nhận nhiều trọng trách quan trọng trong các tổ chức
quốc tế khác. Hàng loạt chuyến thăm chính thức của lãnh đạo cấp cao Đảng, Nhà
nước ta đến Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Thụy Sỹ, Trung Quốc, Nga, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn
Quốc, Ôxtrâylia, một số nước Tây Âu, Vatican,… và nguyên thủ các nước này đến
thăm nước ta trong thời gian qua, đã khẳng định vị thế và uy tín ngày càng cao
của Việt Nam và Đảng Cộng sản Việt Nam trên trường quốc tế. Từ năm 2014, nước
ta bắt đầu tham gia vào lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, thể hiện trách nhiệm
trong việc xây dựng lòng tin, duy trì hòa bình, ổn định trong khu vực và trên
thế giới.
Trên cơ sở kinh tế phát triển, đời sống các tầng
lớp nhân dân được cải thiện rõ rệt. Thu nhập bình quân đầu người trong những
năm đầu đổi mới chỉ đạt khoảng 250 USD/năm, đến năm 2020 đạt 3.521 USD, đứng thứ
sáu trong ASEAN. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Tiến bộ và công bằng
xã hội đạt nhiều kết quả ấn tượng, được Liên hợp quốc xếp là một trong những nước
đứng đầu thực hiện Mục tiêu Thiên niên kỷ. Các vấn đề an sinh xã hội luôn được
quan tâm chăm lo, ngay cả lúc nền kinh tế gặp khó khăn do tác động của suy
thoái kinh tế thế giới, hay của đại dịch Covid-19. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 58%
năm 1993 xuống còn 5,8% năm 2016 theo chuẩn nghèo của Chính phủ và dưới 03% năm
2020 theo chuẩn nghèo đa chiều. Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam
tăng gần 46% từ năm 1990 đến năm 2019, nằm trong số các nước có tốc độ tăng HDI
cao nhất trên thế giới. Năm 2019 HDI của Việt Nam đạt mức 0,704, thuộc nhóm nước
phát triển con người cao của thế giới, nhất là so với các nước có cùng trình độ
phát triển.
Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an
ninh được tăng cường; độc lập, chủ quyền quốc gia được giữ vững. Công tác xây dựng
Đảng và hệ thống chính trị, nhất là phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực
tiếp tục được đẩy mạnh, triển khai quyết liệt, đồng bộ, toàn diện, đi vào chiều
sâu, tạo nhiều chuyển biến tích cực, rõ rệt. Nhờ đó, niềm tin của Nhân dân đối
với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa tiếp tục được củng cố, tăng cường.
Con số 99,6% cử tri tham gia Cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu
Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026 trong điều kiện khó khăn, phức tạp
do đại dịch Covid-19 bùng phát mạnh, là minh chứng sinh động về lòng tin của
nhân dân vào thể chế chính trị do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử
nói trên đều gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó là minh chứng
thuyết phục về năng lực lãnh đạo của Đảng trước đây, cũng như trong công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ hội nhập; là thực tiễn khách quan bác bỏ mọi
sự xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối công cuộc xây dựng và phát
triển đất nước. Đúng như đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Ở
Việt Nam, không có một lực lượng chính trị nào khác, ngoài Đảng Cộng sản Việt
Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước
vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đưa sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta đi từ
thắng lợi này đến thắng lợi khác”2. Trong một công trình nghiên cứu cùng Cơ
quan Phát triển quốc tế Thụy Điển (SIDA), các nhà nghiên cứu của Viện Phát triển
quốc tế thuộc trường Đại học Harvard (Hoa Kỳ) cũng có nhận xét: “Ở Việt Nam,
trong tương lai, khó có thể hình dung cơ sở xã hội cho việc xây dựng một đảng
có khả năng cạnh tranh với Đảng Cộng sản Việt Nam”. Bởi lẽ, ở Việt Nam hơn 90
năm qua, đại đa số nhân dân thừa nhận sự lãnh đạo độc tôn của Đảng là nhân tố
hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam; trìu mến gọi Đảng Cộng
sản Việt Nam là “Đảng ta” và coi Đảng là người đại biểu trung thành cho lợi ích
của mình, do Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ đại biểu cho lợi ích của giai cấp
công nhân, mà còn đại biểu cho lợi ích của nhân dân lao động và của cả dân tộc.
Để tiếp tục giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới, Đại hội XIII
của Đảng đã xác định “phải đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa xây dựng, chỉnh
đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”, xem đó
là nhiệm vụ then chốt. Tổ chức thực hiện một cách nghiêm túc, quyết liệt, đồng
bộ công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, gắn liền với đẩy mạnh học tập và làm theo
tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, là cách làm hiệu quả nhất để bác bỏ
những mưu toan và hành động xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với
công cuộc xây dựng, phát triển đất nước trong thời kỳ hội nhập.

- 越南社会主义法权国家的本质是不可歪曲的
- Không thể xuyên tạc bản chất Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
- 越南增长前景乐观
- 在越南社会主义法治国家建设中继续推进人民当家作主
- Tiếp tục phát huy quyền làm chủ nhân dân trong xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
- 批评“越南走向资本主义才能发展且顺应时代潮流”的观点
- Phê phán quan điểm “Việt Nam đi theo chủ nghĩa tư bản mới phát triển và phù hợp với xu thế thời đại”
- 越南在实施人权进程中的努力
- Nỗ lực của Việt Nam trong trong thực hiện quyền con người
- 灵活应对 坚决行动 促进恢复和发展
- Ứng phó linh hoạt, quyết tâm hành động để thúc đẩy phục hồi và phát triển
- 新闻自由必须在法律框架内
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét