Những cơ sở lịch sử và pháp lý khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (Phần 1)
Đặt vấn đề
Việt Nam có hơn 3000 hòn đảo ven bờ và hai quần
đảo ngoài khơi là quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (1). Luật Biển Việt Nam được kỳ
họp thứ 3 Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 21/6/2012, có hiệu lực thi hành từ
ngày 01/01/2013 đã xác định rõ “Quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa…thuộc chủ
quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia của Việt Nam”. Tuy nhiên, việc
tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo trong khu vực và trên biển Đông đã,
đang và sẽ diễn ra gay gắt; đồng thời, đây cũng là khu vực cạnh tranh chiến lược
giữa một số nước lớn… Trong số các chủ thể tranh chấp ở biển
Đông, Trung Quốc là quốc gia có tham vọng lớn nhất. Tham vọng đó đã được các nhà lãnh đạo các thế
hệ khác nhau từ Mao Trạch Đông đến nay, bằng những biện pháp và phương thức
khác nhau thực hiện. Từ hoàn thiện văn bản quy phạm pháp luật, thành lập các
đơn vị hành chính đến khẳng định trên thực địa, nhằm từng bước kiểm soát, khống
chế tiến đến độc chiếm biển Đông, lấy biển Đông làm bàn đạp tiến ra Thái Bình
Dương và Ấn Độ Dương…Tình hình này đặt ra cho Việt Nam: một mặt, cần khai thác
các chứng cứ lịch sử, pháp lý chứng minh chủ quyền không thể tranh cãi của Việt
Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; nhưng mặt khác, cũng cần phải đấu
tranh phản bác lại những quan điểm sai trái của phía Trung Quốc, kể cả quan điểm
chính thức và quan điểm của học giả (2). Theo ý nghĩa đó, bài viết này sẽ tập
trung phân tích những cơ sở lịch sử và pháp lý khẳng định chủ quyền của Việt
Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
1. Chủ quyền lịch sử của Việt Nam đối với hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
1.1. Các sách địa lý và bản đồ cổ của Việt
Nam ghi chép rõ Bãi cát vàng, Hoàng Sa, Vạn lý Hoàng Sa, Đại Trường Sa hoặc Vạn
lý Trường Sa (cả quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa) từ lâu đã là lãnh thổ Việt Nam
- “Toản Tập Thiên Nam tứ chí Lộ Đồ Thư”, tập
bản đồ Việt Nam do Đỗ Bá, tên chữ là Công Đạo, soạn vẽ vào thế kỷ thứ XVII, ghi
rõ trong lời chú giải bản đồ vùng Phủ Quảng Ngãi, xứ Quảng Nam: “Giữa biển có một
bãi cát dài, gọi là Bãi Cát Vàng, độ dài 400 dặm, rộng 20 dặm, đứng dựng giữa
biển, từ cửa Đại Chiêm đến cửa Sa Vinh (3) mỗi lần có gió Tây Nam thì thương
thuyền các nước đi ở phía trong trôi dạt ở đấy,…có gió Đông Bắc thì thương thuyền
đi ở phía ngoài cũng trôi dạt ở đấy, đều cùng chết đói cả, hàng hóa thì đều ở lại
nơi đó” (4).
- Trong “Giáp Ngọ Bình Nam đồ”, bản đồ xứ
Đàng Trong do Đoàn quận công Bùi Thế Đạt vẽ năm 1774, Bãi Cát vàng cũng được vẽ
là một bộ phận của lãnh thổ Việt Nam (5).
- “Phủ biên tạp lục” sách của nhà bác học Lê
Quý Đôn (1726-1784) biên soạn năm 1776, viết về lịch sử, địa lý, hành chính xứ
Đàng Trong dưới thời chúa Nguyễn (1558-1775) khi ông được triều đình bổ nhiệm
phục vụ tại miền Nam, chép rõ đảo Đại Trường Sa (tức Hoàng Sa và Trường Sa) thuộc
phủ Quảng Ngãi “xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, phủ Quảng Ngãi, ở ngoài cửa biển có
núi gọi là Cù Lao Ré, rộng hơn 30 dặm (đơn vị đo lường thời xưa, tương đương
0,5km), có phường Tứ Chính, dân cư trồng đậu, ra biển bốn canh thì đến, phía
ngoài nữa lại có đảo Đại Trường Sa. Trước kia có nhiều hải vật và hóa vật của tầu,
lập đội Hoàng Sa để lấy, đi ba ngày đêm mới đến, là chỗ gần xứ Bắc Hải”, “Phủ
Quảng Ngãi, huyện Bình Sơn có xã Vĩnh An, ở gần biển, ngoài biển về phía Đông Bắc
có nhiều cù lao, các núi linh tinh hơn 130 ngọn, cách nhau bằng biển, từ hòn
này sang hòn kia hoặc đi một ngày, hoặc vài canh thì đến. Trên núi có suối nước
ngọt, trong đảo có bãi cát vàng, dài ước hơn 30 dặm, bằng phẳng, rộng lớn, nước
trong suốt đáy…các thuyền ngoại phiên bị bão thường đậu ở đảo này. Trước họ Nguyễn
đặt đội Hoàng Sa 70 suất, lấy người xã An Vĩnh sung vào, cắt phiên mỗi năm cứ
ba tháng nhận giấy sai đi, mang lương đủ ăn sáu tháng, đi bằng 5 chiếc thuyền
câu nhỏ, ra biển 3 ngày 3 đêm thì đến đảo ấy…Họ Nguyễn lại đặt đội Bắc Hải,
không định bao nhiêu suất, hoặc người thôn Thứ Chính ở Bình Thuận, hoặc người
xã Cảnh Dương, ai tình nguyện thì cấp giấy sai đi, miễn cho tiền sưu cùng các
tiền tuần đò, cho đi thuyền câu nhỏ ra các xứ Bắc Hải, cù lao Côn Lôn và các đảo
ở Hà Tiên, tìm lượm vật của Tầu và các thứ đồi mồi, hải ba, bào ngư, hải sâm,
cùng sai cai đội Hoàng Sa kiêm quản. Chẳng qua là lấy các thứ hải vật, còn vàng
bạc của cải ít khi lấy được” (6).
Trong số tư liệu còn tìm thấy ngày nay, có thể
kể tờ sai sau đây đề năm 1786 của quan Thượng tướng công: “Sai cai Hội Đức Hầu
đội Hoàng Sa dẫn 4 chiếc thuyền câu vượt biển thẳng đến Hoàng Sa và các cù lao
trên biển thu lượm đồ vàng, bạc, đồ đồng và đại bác, tiểu bác (chỉ loại pháo cỡ
nhỏ), đồi mồi, hải ba cùng cá quý mang về kinh đô dâng nộp theo lệ” (7).
- “Đại Nam nhất thống toàn đồ”, bản đồ nước
Việt Nam thời Nguyễn vẽ vào khoảng năm 1838, ghi “Hoàng Sa - Vạn lý Trường Sa”
thuộc lãnh thổ Việt Nam, phía ngoài các đảo ven bờ miền Trung Việt Nam thuộc
lãnh thổ Việt Nam (8).
- “Đại Nam nhất thống chí”, bộ sách địa lý Việt
Nam do Quốc sử quán nhà Nguyễn (1802-1845) soạn xong năm 1882 (phần viết về các
tỉnh Trung Bộ được soạn lại và khắc in năm 1909) đã ghi Hoàng Sa là bộ phận
lãnh thổ Việt Nam thuộc tỉnh Quảng Ngãi. Đoạn nói về hình thể tỉnh Quảng Ngãi,
cuốn sách viết: “Phía Đông tỉnh Quảng Ngãi, có đảo cát (tức đảo Hoàng Sa) liền
cát với biển làm hào, phía Tây Nam miền Sơn man có lũy dài vững vàng, phía Nam
liền với tỉnh Bình Định, có đèo Bến Đá chắn ngang, phía Bắc giáp tỉnh Quảng
Nam, có ghềnh Sa Thổ làm giới hạn…(9).
“…Đầu đời vua Gia Long phỏng theo lệ cũ đặt đội
Hoàng Sa, sau lại bỏ; đầu đời Minh Mệnh, thường sai người đi thuyền công đến đấy
thăm dò đường biển, thấy một nơi có cồn cát trắng chu vi 1.070 trượng, cây cối
xanh tốt, giữa cồn cát có giếng, phía Tây Nam có ngôi miếu cổ, không rõ dựng từ
thời nào, có bia khắc 4 chữ “Vạn lý Ba Bình” (Muôn dặm sóng yên). Cồn cát này
xưa gọi là Phật Tự Sơn, phía Đông và Tây đều có đá san hô nổi lên một cồn chu
vi 340 trượng, cao 1 trượng 2 thước ngang với cồn cát, gọi là Bàn Than Thạch.
Năm Minh Mệnh thứ 16, sai thuyền công chở gạch đá đến xây dựng đền, bia đá ở
phía trái đền, để ghi dấu và tra hạt các thứ cây ở 3 mặt phải, trái, sau…Nhiều
nhà hàng hải, giáo sĩ phương Tây trong những thế kỷ trước đều xác nhận Hoàng Sa
(Pracel hay Paracel) thuộc lãnh thổ của Việt Nam. Một giáo sĩ phương Tây đi
trên tàu Amphitrite từ Pháp sang Trung Quốc năm 1701 viết một lá thư rằng
“Paracel là một quần đảo thuộc vương quốc An Nam” (10).
- Giám mục J.L.Taberd, trong bài “Ghi chép về
địa lý nước Cochimchine xuất bản năm 1837, cũng mô tả “Pracel hay Pracels” là
phần lãnh thổ nước Cochinchine và nói rõ người Cochinchine gọi Pracel hay
Paracels là “cát vàng” (11). Trong An Nam đại quốc họa đồ, xuất bản năm 1838,
ông đã vẽ một phần của Paracel và ghi “Paracel hay Cát Vàng” (Paracel seu Cát
Vàng) ở ngoài các đảo ven bờ miền Trung Việt Nam, vào khu vực quần đảo Hoàng Sa
hiện nay (12).
- J.B.Chaigneu, cố vấn của vua Gia Long, năm
1820 đã viết trong phần chú bổ sung vào cuốn “Hồi ký về nước Cochinchine” (Danh
từ Cochinchine (tiếng Pháp) hoặc Cochinchina (tiếng Anh) trong tài liệu phương
Tây trích dẫn ở đây có 2 nghĩa tùy theo văn cảnh: a) nước Việt Nam thời bấy giờ,
sách này dịch là nước Cochinchine; b) xứ Đàng Trong thời bấy giờ, sách này dịch
là xứ Cochinchine): “Nước Cochinchine mà nhà vua bấy giờ đã lên ngôi Hoàng Đế gồm
xứ Cochinchine và xứ Đông Kinh (tức Đàng Ngoài - Letonkin)…một vài đảo có dân
cư không xa bờ biển và quần đảo Paracel do những đảo nhỏ, gềnh và đá không có
dân cư hợp thành”(13).
- Trong “bài địa lý vương quốc Cochinchina”
(“Bài địa lý vương quốc Cochinchina” Đàng Trong “Tạp chí Hội địa lý Hoàng gia
London” (The jounal of the Royal Geography Society of London) tập XIX, 1849,
trang 93) của Gutzlaff, xuất bản năm 1849 có đoạn nói rõ Paracel thuộc lãnh thổ
Việt Nam và chú thích cả tên Việt Nam là “Cát Vàng” (14).
Tóm lại, các sách địa lý, bản đồ cổ của Việt
Nam và nước ngoài đều ghi rất rõ ràng Bãi cát vàng, Hoàng Sa, vạn lý Hoàng Sa,
Đại Trường Sa, Vạn lý Trường sa, Pracel hay Paracels là lãnh thổ thuộc chủ quyền
của Việt Nam.
-----------
(1) Bộ Ngoại giao, Ban
Biên giới quốc gia “Chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa. Nxb. Trí thức, Hà Nội, 2012, trang 1.
(2) Hoài Sa (chủ biên)
“Xuất bản phẩm Trung Quốc về Hoàng Sa, Trường Sa và biển Đông - cái nhìn Tổng
quan”, Nxb KHXH, Hà Nội, 2019, trang 7, 8.
(3) Cửa Đại Chiêm nay là
cửa Đại thuộc tỉnh Quảng Nam, cửa Sa Vinh nay là cửa Sa Huỳnh thuộc tỉnh Quảng
Ngãi.
(4) Bộ Ngoại giao, Ban
Biên giới quốc gia “Chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa. Nxb. Trí thức, Hà Nội, 2012, trang 5
(5) Trong tập Hồng Đức bản
đồ
(6) (7) (8) (9) Bộ Ngoại
giao, Ban Biên giới quốc gia “Chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa. Nxb. Trí thức, Hà Nội, 2012 trang 5-13
(10) J.Y.C trích dẫn trong bài “Bí mật các đảo
san hô - Nhật ký về cuộc hành trình đến Hoàng Sa”, đăng trên tuần báo “Đông
Dương (indochine) trong các số ngày 3, 10, 17/7/1941
(11) “Ghi chép về địa lý nước Cochinchine” của
Giám mục jean - Louis Taberd đăng trong “tạp chí của Hội châu Á Băng - Gan”
(The journal of the Asiatic Sciety of Bengal) tập VI, 1837, tr. 745
(12) Đính trong cuốn “Từ điển La tinh - Việt
Nam” (Dictionarium Latino - Anamiticum), 1838.
(13) (14) Bộ Ngoại giao, Ban Biên giới quốc gia “Chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nxb. Trí thức, Hà Nội, 2012, trang 13, 14.

- 越南为联合国国际法委员会作出积极贡献
- Việt Nam đóng góp tích cực tại Uỷ ban Luật quốc tế của Liên hợp quốc
- 为共同的未来保护海洋
- Bảo vệ đại dương vì tương lai chung
- 越南承诺促进蓝海可持续发展
- Việt Nam khẳng định cam kết phát triển đại dương xanh, bền vững
- 第八次海洋对话:越南承诺遵守和促进《联合国海洋法公约》
- Đối thoại biển lần thứ 8: Thúc đẩy hợp tác biển tại Đông Nam Á
- 必须对“绿色宪章”持有正确的看法
- Cần cái nhìn đúng về bản “Hiến chương xanh”
- 应用1982年UNCLOS 促进越南成为海洋强国
- Vận dụng UNCLOS 1982 để đưa Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét