Phát triển các sản phẩm, dịch vụ văn hóa để quảng bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới (phần 1)
Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đem đến nhiều
thời cơ nhưng cũng đặt ra không ít khó khăn, thách thức. Một trong những yêu cầu,
nhiệm vụ đối với văn hóa nước ta hiện nay là cần phát triển mạnh mẽ các sản phẩm,
dịch vụ văn hóa độc đáo, vừa để xây dựng thị trường văn hóa lành mạnh, vừa đóng
góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường quảng bá hình ảnh đất nước
và con người Việt Nam ra thế giới.
Văn hóa không chỉ góp phần chuyển giao tri thức,
giáo dục thẩm mỹ, giúp truyền tải các giá trị văn hóa - xã hội quan trọng mà
còn là một ngành sản xuất, một lĩnh vực đóng góp cho tăng trưởng kinh tế cũng
như góp phần bảo đảm cho phát triển bền vững. Nhiều nước trên thế giới đã công
nhận văn hóa như một trong những trụ cột chính của nền kinh tế sáng tạo, một
lĩnh vực quan trọng của thương mại và cạnh tranh quốc tế. Việc thừa nhận giá trị
kép của văn hóa đã làm cho nhiều chính phủ trên thế giới tập trung phát triển
và mở rộng các ngành công nghiệp văn hóa như một phần của chiến lược đa dạng
hóa kinh tế, kích thích tăng trưởng kinh tế, thịnh vượng và hạnh phúc. Các
ngành công nghiệp văn hóa cùng với “dòng chảy” của các sản phẩm, dịch vụ văn
hóa đã tạo nên thu nhập đáng kể, mang lại những cơ hội mới cho các doanh nghiệp,
nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Trong nỗ lực hội nhập quốc tế, Chiến lược
phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến
năm 2030 (gọi tắt là Chiến lược) đã được ban hành. Đây là chiến lược quốc
gia về phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, có tính tổng thể, bao
trùm lên 12 ngành công nghiệp văn hóa. Các mục tiêu trong Chiến lược đã tác
động trực tiếp đến việc hình thành thị trường văn hóa với các sản phẩm, dịch vụ
văn hóa nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế của
Việt Nam. Việc phát triển các ngành công nghiệp văn hóa trở thành ngành kinh tế
dịch vụ quan trọng sẽ không chỉ đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế, giải
quyết việc làm mà còn đáp ứng nhu cầu sáng tạo, hưởng thụ, tiêu dùng văn hóa của
người dân, góp phần xuất khẩu văn hóa, quảng bá hình ảnh đất nước và con người
Việt Nam.
Sản xuất ngày càng nhiều sản phẩm, dịch vụ
văn hóa đa dạng, chất lượng, xác lập các thương hiệu sản phẩm, dịch vụ văn hóa,
ưu tiên phát triển các ngành có nhiều lợi thế, tiềm năng của Việt Nam là những
bước đi tất yếu để thực hiện Chiến lược này. Trong bối cảnh hiện nay, đóng góp
của các sản phẩm, dịch vụ văn hóa vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP) có cơ hội
tăng lên khi được tích hợp với kỹ thuật số và nền kinh tế chia sẻ, với việc sử
dụng thương mại điện tử và các cơ hội đa dạng khác đang nổi lên trong không
gian số.
Hiện nay, các giao dịch thương mại toàn cầu về
văn hóa ngày càng gia tăng đã chứng minh, văn hóa chính là một loại “sức mạnh mềm”,
có sức truyền bá lớn lao vượt ra ngoài biên giới, thúc đẩy sự đối thoại, hiểu
biết về văn hóa giữa các quốc gia. Việc phát triển mạnh mẽ các sản phẩm, dịch vụ
văn hóa góp phần tích cực cho việc tuyên truyền, đề cao các giá trị của văn
hóa, đất nước, con người Việt Nam nói riêng và đóng góp cho sự đa dạng văn hóa,
cho sự phát triển bền vững của nhân loại nói chung. Tuy nhiên, trong bối cảnh
toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, nguy cơ đồng hóa và lệ thuộc về văn hóa với sự
hỗ trợ của các phương tiện truyền thông, sự phát triển của khoa học - kỹ thuật
và môi trường số hóa ngày càng cao. Văn hóa của các nước lớn với sức lan tỏa rộng
có thể tác động đến đời sống văn hóa của nước ta, thì sự dồi dào của hàng hóa -
dịch vụ văn hóa Việt Nam trên thị trường nội địa và quốc tế chính là “sức mạnh
mềm” văn hóa, làm cho văn hóa thấm sâu vào đời sống người dân, góp phần gìn giữ
bản sắc văn hóa truyền thống dân tộc, hạn chế nguy cơ lệ thuộc vào văn hóa của
các quốc gia khác.
Sự chuyển đổi kỹ thuật số đã và đang tạo ra những cơ hội, khả năng và thách thức mới cho ngành văn hóa về phương thức hoạt động. Công nghệ số phát triển mang đến khả năng tiếp cận các nội dung văn hóa dễ dàng hơn và không bị giới hạn bởi các đường biên giới quốc gia nhưng điều này cũng đòi hỏi mỗi sản phẩm văn hóa phải có sự khác biệt, độc đáo trong nội dung, ý tưởng mới tạo ra được ưu thế cạnh tranh trên thị trường. Các nước phát triển trên thế giới đang chuyển nhanh sang nền kinh tế số, kinh tế sáng tạo, đồng thời thực hiện số hóa các nội dung văn hóa. Sự thay đổi này đã đem lại những cơ hội lớn về khả năng giảm thiểu chi phí sản xuất, góp phần tạo ra các kênh phân phối, quảng bá sản phẩm mới. Sự chuyển dịch của cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp - dịch vụ, cùng với tốc độ đô thị hóa diễn ra ngày càng nhanh đặt ra yêu cầu thúc đẩy các cá nhân, tổ chức, các đơn vị văn hóa - nghệ thuật phát triển hàng hóa và dịch vụ văn hóa, xây dựng các mối quan hệ chặt chẽ hơn với thị trường, với công chúng/người tiêu dùng, đa dạng hóa nguồn thu thông qua các thực hành văn hóa gắn với các nhu cầu của cuộc sống đương đại, từ đó nâng cao vai trò và giá trị tổng thể của văn hóa. Có thể nói, môi trường thể chế, năng lực sáng tạo, bộ máy quản trị, quy trình sản xuất, kỹ năng kinh doanh, công nghệ số... mang đến cơ hội và cũng đặt ra những thử thách lớn cho ngành văn hóa Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế.

- 保护与弘扬文化遗产价值 发挥国家文化的“软实力”
- Phát triển "sức mạnh mềm" của văn hóa Việt Nam
- 保护和弘扬升龙皇城的世界文化遗产价值
- Bảo tồn và phát huy giá trị di sản Hoàng thành Thăng Long
- 促进越南文化产业发展
- Thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp văn hóa
- 培育海外年轻一代对越南语的热爱
- Bồi đắp tình yêu tiếng Việt cho cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài
- 河内着力打造文化品牌形象
- Xây dựng thương hiệu văn hóa mang tên Hà Nội
- 盂兰节——报孝节是越南人民一年中的大节日
- Vu lan - mùa báo hiếu, ngày lễ lớn trong năm của người Việt Nam
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét