“Việt Nam không có dân chủ, nhân quyền và đàn áp mạng xã hội” - luận điệu xuyên tạc, lố bịch
QPTD -Sau 35 năm đổi mới, Việt Nam đã có sự phát triển vượt bậc
trong bảo vệ, thúc đẩy quyền con người, bảo đảm quyền dân chủ cho nhân dân. Tuy
nhiên, các thế lực thù địch chẳng những không thừa nhận, mà còn ra sức chống
phá, với những luận điệu xuyên tạc, lố bịch về một Việt Nam không có dân chủ,
nhân quyền, không có tự do ngôn luận và đàn áp mạng xã hội. Đó là vấn đề cần đấu
tranh bác bỏ.
Sự xuyên tạc, lố bịch về
tình hình dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam
Cách nhìn xuyên tạc, lố bịch đến mức chính trị hóa mọi vấn đề là
điều dễ nhận thấy trong các chiêu trò chống phá của các thế lực thù địch về
tình hình dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam. Họ lắp ghép khiên cưỡng yếu tố đạo đức
vào thuật ngữ pháp lý, điển hình là ngôn từ mà họ thường xướng lên: “tù nhân
lương tâm”, phản ánh cách tư duy chiết trung, ngụy biện, thiếu đạo đức khi
không có cơ sở pháp lý. Bởi, trong nền tư pháp Việt Nam và các nước trên thế giới
không có thuật ngữ “tù nhân lương tâm”. Thực chất cái gọi là “tù nhân lương
tâm” chỉ là một chiêu trò nhằm cổ súy, hậu thuẫn, để dễ bề can thiệp vào việc bảo
vệ, kích động các đối tượng chống phá, xuyên tạc chủ trương, đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước ta. Những phiên tòa xét xử công khai, nghiêm minh các
đối tượng chống đối, như: Phạm Chí Dũng, Nguyễn Tường Thụy, Phạm Chí Thành, Cấn
Thị Thêu, Phạm Thị Đoan Trang,... là việc làm cần thiết của một nhà nước có chủ
quyền, nhằm ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luật đến mức nguy hiểm đối với
xã hội. Trước công lý, các đối tượng này đều công khai chấp nhận các phán quyết
của hội đồng xét xử với những tội danh của mình. Vậy nhưng, một số tổ chức nước
ngoài không có thiện chí với Việt Nam lại ra những tuyên bố phê phán Tòa án Việt
Nam và tỏ thái độ cổ súy, ủng hộ những đối tượng đã bị xét xử và phán quyết công
khai về hành vi phạm tội. Đây thực chất là cách tiếp cận pháp lý hết sức sai
trái và xuyên tạc trắng trợn tình hình nhân quyền ở Việt Nam.
Họ còn quy chụp rằng: Việt Nam xem xét nhân quyền với nội hàm quá
rộng, thiên về khuôn phép xã hội, mà coi nhẹ việc bảo đảm quyền tự nhiên cụ thể
của cá nhân. Họ cố tình lờ đi một sự thật hiển nhiên rằng: bảo đảm quyền tự
nhiên cụ thể của cá nhân phải đặt trong mối quan hệ với lợi ích của xã hội
trong khuôn khổ pháp luật. Không chỉ ở Việt Nam, mà hầu hết các quốc gia trên
thế giới đều tiếp cận và thực hành nhân quyền phổ quát không chung chung, trừu
tượng, mà trong mối quan hệ tự nhiên giữa quyền cá nhân cụ thể với quyền của
nhóm xã hội trực tiếp liên quan đến cá nhân đó. Chỉ dựa trên một số thông tin
chưa được kiểm chứng và mang động cơ thù địch về chính trị đối với Việt Nam để
quy chụp tình hình dân chủ, nhân quyền sẽ là cách nhìn lố bịch. Điều này thấy
rõ nhất trong các bản phúc trình nhân quyền toàn cầu từ năm 2013 của Tổ chức
theo dõi Nhân quyền (HRW).
Các thế lực thù địch nhân danh nhân quyền phổ quát để ra sức cổ
súy cho nhân quyền phương Tây. Họ tự coi văn hóa phương Tây là trung tâm, xem
nhân quyền phương Tây chi phối nhân quyền phổ quát toàn thế giới và cao hơn chủ
quyền quốc gia. Lối nhân danh này bị chi phối bởi nguồn kinh phí hoạt động của
những cá nhân, tổ chức dân sự theo cơ chế thị trường, vi phạm nghiêm trọng công
ước và nguyên tắc quốc tế về cấm can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc
gia khác. Điển hình là, các bản phúc trình về nhân quyền của HRW thường bị nhiều
nước phản ứng và chỉ trích, lên án.
Mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ và nền văn hóa do khác biệt về hoàn cảnh
lịch sử, giá trị truyền thống, trình độ phát triển, chế độ chính trị,... nên có
cách tiếp cận nhân quyền phổ quát là khác nhau. Ông Lý Quang Diệu, cố Thủ tướng
Singapore, đã từng khẳng định: không ở đâu trên thế giới, các quyền này lại được
phép thực hiện mà không có những giới hạn, vì nếu áp dụng một cách mù quáng những
ý tưởng này có thể đi theo hướng hủy hoại xã hội có tổ chức. Cựu Đại sứ Hoa Kỳ
tại Việt Nam Pete Peterson cho rằng: không thể đánh giá tình hình nhân quyền của
một quốc gia trên chuẩn 100% hài lòng. Hoa Kỳ cũng như không một quốc gia nào
khác có thể đáp ứng nhu cầu đó; thang điểm 100% hài lòng về mặt nhân quyền là
điều không thể đạt được tại một quốc gia.
Những năm qua, bảo đảm nhân quyền ở Việt Nam đã được nhiều nhà
lãnh đạo, chính khách quốc tế, các nhà quan sát, du khách cảm nhận, đánh giá
cao. Nhà báo chuyên về chính trị Đông Nam Á, David Hutt phát biểu trên đài BBC News
rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã hành động trách nhiệm và đặt người dân là mối
quan tâm hàng đầu. Ngoài ra, sự thành công của Việt Nam trong việc biến nguy
thành cơ để thực hiện có kết quả mục tiêu kép trong: phòng, chống đại dịch
Covid-19; đồng thời, phát triển kinh tế - xã hội, nhằm “không để ai bị bỏ lại
phía sau” đã nhận được rất nhiều bình luận, đánh giá tốt của giới chính khách,
chuyên gia, truyền thông quốc tế. Đó là minh chứng sống động trong việc tôn trọng,
bảo vệ, thúc đẩy nhân quyền của Đảng, Nhà nước Việt Nam.
Việt Nam không có tự do
ngôn luận và đàn áp mạng xã hội - Luận điệu xuyên tạc, lố bịch
Các thế lực thù địch, phản động, chống đối chính trị ra sức rêu
rao, xuyên tạc Việt Nam ngăn cản tự do ngôn luận, tự do bày tỏ chính kiến, là kẻ
thù của tự do báo chí trên mạng. Họ chỉ trích chính quyền bắt, truy tố tùy tiện
người chống đối; kiểm duyệt, đóng các trang mạng, ra các luật mang tính chất
hình sự; chính quyền xiết chặt, kiềm tỏa các quyền tự do biểu đạt, tự do lập hội,
nhóm ôn hòa, tự do đi lại và tự do tôn giáo, v.v. Họ ngộ nhận về quyền tự do
ngôn luận, tự do báo chí dẫn tới cho rằng các quyền này là tuyệt đối, nhằm kích
động, tẩy chay và trả đũa nhau khốc liệt, kể cả bôi nhọ, chống đối chế độ xã hội,
đặc biệt thông qua livestream “bẩn” trên mạng xã hội, v.v. Từ đó, thúc đẩy
thành lập một số tổ chức nhân danh văn chương, báo chí, như: “Văn đoàn độc lập”,
“Hội nhà báo độc lập”, “Phóng viên không biên giới”, “The 88 Project”1,… để chống
đối chế độ, xuyên tạc Nhà nước ta bắt, bỏ tù nhà báo độc lập, đấu tranh cho cái
gọi là tự do ngôn luận. Đưa ra bảng xếp hạng sai lệch về tự do báo chí ở Việt
Nam; gây sức ép đòi thả tự do cho các đối tượng bị cơ quan chức năng bắt giữ do
vi phạm pháp luật Việt Nam mà họ gọi là bắt, bỏ tù “nhà báo báo độc lập”,
“blogger”, v.v. Đây là những luận điệu xuyên tạc, lố bịch, bởi: Tôn trọng, bảo
vệ, thúc đẩy quyền con người, trong đó có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí
là quan điểm xuyên suốt, nhất quán của Đảng, Nhà nước ta. Với quan điểm đề cao
vai trò của báo chí là diễn đàn của nhân dân, là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với
Nhân dân, để nhân dân trình bày những tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của mình.
Thông qua đó báo chí thực hiện chức năng phản biện xã hội, đề xuất những ý kiến
tâm huyết đối với Đảng, Nhà nước, định hướng dư luận trong quá trình xây dựng
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, góp phần
thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật
tự và an toàn xã hội. Thực hiện quan điểm đó, Nhà nước Việt Nam đặc biệt quan
tâm xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm tự do ngôn luận, tự do
báo chí, tự do thông tin. Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận
thông tin đã được Hiến pháp (năm 2013), Luật Báo chí (năm 2016) và Luật Tiếp cận
thông tin (năm 2016) quy định trách nhiệm của Nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi
để công dân thực hiện quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận; bảo đảm mọi công
dân đều bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trong việc thực hiện quyền tiếp cận
thông tin; bảo đảm cung cấp thông tin chính xác, đầy đủ, kịp thời, minh bạch,
thuận lợi cho công dân. Đặc biệt, báo chí không bị kiểm duyệt trước khi in,
truyền dẫn và phát sóng.
Hiện nay, Việt Nam có khoảng 41.000 nhân sự đang hoạt động trong
lĩnh vực báo chí, với 779 cơ quan báo chí (trong đó có: 142 báo, 612 tạp chí,
25 cơ quan báo chí điện tử độc lập), 72 cơ quan được cấp phép hoạt động phát
thanh - truyền hình với tổng số 87 kênh phát thanh và 193 kênh truyền hình.
Tính tới tháng 6/2021, số lượng người dùng internet là gần 70 triệu người, tăng
0,8% trong giai đoạn 2020 - 2021 (chiếm hơn 70% dân số); số người sử dụng mạng
xã hội là gần 76 triệu người, tăng gần 10 triệu người trong vòng 01 năm (tương
đương 73,7% dân số). Việt Nam được đánh giá là quốc gia có lượng người dùng
internet cao thứ 12 trên toàn thế giới và đứng thứ sáu trong tổng số 35 quốc
gia/vùng lãnh thổ khu vực châu Á.
Mặt khác, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do thông tin
không phải là quyền tuyệt đối mà là quyền có giới hạn. Tự do ngôn luận, tự do
báo chí, tự do thông tin được xem là nguyên tắc cơ bản cho một nền dân chủ, thậm
chí được ví như là “khí ôxy” trong một xã hội dân chủ và phát triển; nhưng
không được cộng đồng quốc tế thừa nhận là quyền tuyệt đối. Các văn kiện quốc tế
về quyền con người, như: Tuyên ngôn Thế giới về quyền con người năm 1948 (Điều
29), Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 (Điều 19) đều khẳng
định: việc thực hiện quyền tự do ngôn luận phải kèm theo những nghĩa vụ và
trách nhiệm đặc biệt, có thể phải chịu một số hạn chế nhất định được quy định
trong luật và là cần thiết nhằm tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác; bảo vệ an
ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của xã hội. Pháp luật
của đa số các nước trên thế giới đều giới hạn quyền này, như: tại Mỹ, Bộ luật
Hình sự (Điều 2.385, Chương 115) quy định về sự hạn chế của quyền tự do ngôn luận;
tại Đức, Luật An ninh mạng năm 2015 (sửa đổi năm 2018), quy định những dịch vụ
mạng xã hội có thể bị phạt lên đến 50 triệu Euro nếu để xảy ra trường hợp người
dùng lăng mạ, gây thù oán, hay phát tán các tin tức giả mạo, v.v.
Để tiệm cận với các chuẩn mực quốc tế về quyền con người, Việt Nam
đã xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý bảo đảm quyền tự do ngôn luận, bảo đảm
nguyên tắc báo chí, nhà báo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và được pháp luật
bảo hộ; nghiêm cấm mọi hành vi lạm dụng quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn
luận trên báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
tổ chức và công dân. Mọi hành vi vi phạm pháp luật đều được các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền xử lý theo trình tự, thủ tục luật định, bảo đảm công khai, minh bạch,
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, cũng không bỏ
lọt tội phạm. Đồng thời, theo dõi, khảo sát, đánh giá và kịp thời điều chỉnh, bổ
sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách, phù hợp với các quy tắc điều
chỉnh hành vi văn hóa trong sinh hoạt cộng đồng xã hội, nhất là trên không gian
mạng. Sự thực trên đã vạch trần sự phiến diện, xuyên tạc về quyền tự do ngôn luận
tại Việt Nam.
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét