Cảnh sát biển Việt Nam nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế
Quán
triệt sâu sắc quan điểm, đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước, thực hiện vai
trò, chức năng, nhiệm vụ quy định tại Luật Cảnh sát biển Việt Nam năm 2018, lực
lượng Cảnh sát biển Việt Nam đã một mặt tăng cường hợp tác quốc tế trong đấu tranh
phòng, chống vi phạm, tội phạm trên biển, mặt khác tích cực mở rộng hợp tác quốc
tế với những quốc gia có lực lượng thực thi pháp luật trên biển mạnh; có kinh
nghiệm tổ chức, xây dựng lực lượng; có quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam.
Việc
nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế vừa là thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được
giao của lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam, vừa góp phần giữ vững môi trường hòa
bình, ổn định, để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.
Trước
yêu cầu cao của nhiệm vụ quản lý, duy trì an ninh, trật tự, an toàn và bảo đảm
việc chấp hành pháp luật trên các vùng biển, thềm lục địa của Tổ quốc, Cảnh sát
biển Việt Nam đã chú trọng tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác đối ngoại, hợp
tác quốc tế, xác định đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng, thường xuyên.
Việc
hợp tác quốc tế của lực lượng Cảnh sát biển thực hiện trên nguyên tắc Điều 19
Luật Cảnh sát biển Việt Nam, quy định: "Thực hiện hợp tác quốc tế trên cơ
sở tuân thủ pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là thành viên và thỏa thuận quốc tế theo thẩm quyền; tôn trọng
các nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế; bảo đảm độc lập, chủ quyền, quyền
chủ quyền, quyền tài phán quốc gia; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và
lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân trên biển. Phát huy sức mạnh nội
lực và sự ủng hộ, giúp đỡ của cộng đồng quốc tế, bảo đảm thực thi pháp luật
trên biển."
Thực
tế cho thấy, sự chủ động, tích cực phát triển, mở rộng quan hệ của Cảnh sát biển
Việt Nam với lực lượng thực thi pháp luật trên biển của các nước trên tinh thần
hợp tác, phát triển, hội nhập đã đạt được nhiều kết quả thiết thực, góp phần giữ
vững an ninh, trật tự, an toàn, hòa bình, ổn định trên vùng biển Việt Nam.
Đặc
biệt, việc đẩy mạnh công tác đối ngoại Cảnh sát biển góp phần phát triển và làm
sâu sắc thêm quan hệ với các nước Đông Nam Á, trong đó có thiết lập, xây dựng
quan hệ hợp tác với lực lượng thực thi pháp luật trên biển các nước đi vào chiều
sâu.
Điều
đó có thể thấy qua việc Cảnh sát biển Việt Nam đã ký Nghị định thư về Cơ chế
liên lạc đường dây nóng với Ủy ban Quốc gia An ninh Hàng hải Campuchia, Ý định
thư với Cảnh sát biển Indonesia (BAKAMLA) năm 2017, Ý định thư với Malaysia năm
2019.
Từ
các văn bản này, nhiều hoạt động hợp tác đã đi vào thực chất, hiệu quả với các
nước, trong đó có các hoạt động góp phần đấu tranh ngăn chặn tình trạng khai
thác hải sản trái phép, không báo cáo, không theo quy định (IUU) của Việt Nam.
Mới
đây, Cảnh sát biển Việt Nam và Ủy ban Quốc gia An ninh Hàng hải Campuchia đã có
cuộc họp rút kinh nghiệm lần thứ 3 về thực hiện Nghị định thư về cơ chế liên lạc
đường dây nóng giữa hai lực lượng.
Tại
cuộc họp, hai bên nhất trí tiếp tục tăng cường thực hiện Nghị định thư về cơ chế
liên lạc đường dây nóng; phối hợp chia sẻ thông tin về chống IUU, hỗ trợ ngư
dân hai bên trong quá trình khai thác hải sản trên biển. Hai bên phối hợp, hỗ
trợ trong tìm kiếm cứu nạn, chống buôn lậu, gian lận thương mại trên biển.
Hàng
năm, hai bên trao đổi đoàn cấp vùng giữa Sở chỉ huy chiến thuật tiền phương của
Ủy ban Quốc gia An ninh Hàng hải Campuchia và Bộ Tư lệnh Vùng Cảnh sát biển 4;
tổ chức họp rút kinh nghiệm lần thứ 4 về thực hiện Nghị định thư tại Campuchia
vào quý 3/2023; tích cực tham gia vào các diễn đàn đa phương về thực thi pháp
luật trên biển, an ninh hàng hải mà hai cơ quan là thành viên.
Trước
đó, vào cuối năm 2021, Cảnh sát biển Việt Nam và Cảnh sát biển Indonesia đã ký
kết Bản ghi nhớ về hợp tác an ninh, an toàn hàng hải giữa hai lực lượng. Bản
ghi nhớ này chính là công cụ, hành lang, cơ chế để hai bên tăng cường hiểu biết
lẫn nhau, hợp tác thiết thực, hiệu quả, giải quyết tốt các vụ việc trên biển.
Đây
cũng là dấu mốc quan trọng mở ra một trang hợp tác sâu sắc hơn, toàn diện hơn
trong mối quan hệ song phương giữa hai bên, là một trong các biện pháp tạm thời
trong việc phân định vùng đặc quyền kinh tế giữa hai nước, góp phần giữ gìn
vùng biển trong khu vực hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển.
Không
chỉ tăng cường hợp tác quốc tế với các quốc gia trong khu vực về đấu tranh
phòng, chống vi phạm, tội phạm trên biển, Cảnh sát biển Việt Nam còn tích cực mở
rộng hợp tác quốc tế với những quốc gia có lực lượng thực thi pháp luật trên biển
mạnh.
Trong
hợp tác với Hoa Kỳ và các nước Nhật Bản, Ấn Độ, Hàn Quốc... hiện thực hóa đường
lối của Đảng về kiên trì đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ vì hòa bình, hữu
nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa và hội nhập quốc tế
toàn diện và sâu rộng, Đảng ủy Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển đã lãnh đạo, chỉ đạo nhạy
bén, quyết liệt.
Nhờ
đó, có nhiều nước đã sẵn sàng tạo điều kiện giúp đỡ, hỗ trợ thiết thực, hiệu quả
về trang bị, tàu thuyền, cơ sở vật chất hậu cần và công tác đào tạo, huấn luyện
nâng cao năng lực, kiến thức về pháp luật, an ninh, an toàn trong thực thi pháp
luật trên biển.
Nổi
bật là trong khuôn khổ Chương trình hợp tác kỹ thuật phi dự án "Đào tạo
tăng cường năng lực cho Cảnh sát biển Việt Nam", Cơ quan Hợp tác Quốc tế
Nhật Bản (JICA) đã phối hợp với Lực lượng bảo vệ bờ biển Nhật Bản (JCG) tổ chức
khóa tập huấn cho Cảnh sát biển Việt Nam tại Phú Quốc trong ba ngày (15-17/8)
nhằm nâng cao năng lực thực thi pháp luật trên biển cho Cảnh sát biển Việt Nam
và tăng cường giao lưu, hợp tác, hiểu biết giữa hai nước Nhật Bản và Việt Nam
nói chung, Cảnh sát biển Việt Nam và Cảnh sát biển Nhật Bản nói riêng.
Các
chuyến thăm, giao lưu của tàu Cảnh sát biển Việt Nam đến Ấn Độ và Nhật Bản những
năm gần đây đã góp phần nâng cao vị thế của Cảnh sát biển Việt Nam trong khu vực
và trên trường quốc tế. Không chỉ là cơ hội để tổ chức huấn luyện, rèn luyện
cho cán bộ, chiến sỹ Cảnh sát biển Việt Nam có bản lĩnh, kinh nghiệm, sức chịu
đựng và khả năng điều động tàu đi xa, dài ngày trên biển, đây còn là cơ hội
nâng cao năng lực cho Cảnh sát biển Việt Nam, đồng thời tạo sự chủ động, bản
lĩnh, cân bằng và đối đẳng trong quan hệ hợp tác giữa các nước lớn.
Trong
bối cảnh và tình hình mới, hợp tác đa phương có vai trò giải quyết các thách thức
toàn cầu, Việt Nam đã cam kết mạnh mẽ đối với chủ nghĩa đa phương, đoàn kết quốc
tế và các nỗ lực chung vì hòa bình và phát triển trên thế giới. Vì thế, Bộ Tư lệnh
Cảnh sát biển Việt Nam đã tham gia tích cực, có trách nhiệm trong các cơ chế,
diễn đàn đa phương.
Điển
hình là Hiệp định hợp tác khu vực chống cướp biển và cướp có vũ trang (ReCAAP).
Đây là cơ chế đa phương mà Cảnh sát biển Việt Nam tham gia đầy đủ nhất, thay mặt
Chính phủ Việt Nam tham gia Hội đồng điều hành, là đầu mối quốc gia về chia sẻ
thông tin, cùng nhiều cơ chế diễn đàn như: Hội nghị những người đứng đầu Cảnh
sát biển các nước châu Á (HACGAM); Diễn đàn Tư lệnh lực lượng thực thi pháp luật
trên biển các quốc gia Đông Nam Á (SEAMLEI); Các hoạt động trong khuôn khổ do
Cơ quan Phòng, chống ma túy và tội phạm của Liên hợp quốc (UNODC) tổ chức; Hội
nghị Cảnh sát biển toàn cầu (CGGS).
Trong
thời gian tới, trước yêu cầu, nhiệm vụ và tình hình mới, Cảnh sát biển Việt Nam
tiếp tục đẩy mạnh công tác đối ngoại, thúc đẩy quan hệ hợp tác với lực lượng bảo
vệ bờ biển, Cảnh sát biển các nước, ưu tiên các nước trong khu vực, các nước có
vùng biển giáp với nước ta và các đối tác truyền thống.
Đặc biệt, thông qua các hoạt động đối ngoại, Cảnh sát biển Việt Nam mang thông điệp hợp tác, phát triển và hội nhập đến với lực lượng thực thi pháp luật trên biển của các nước. Từ đó, góp phần giữ vững sự ổn định hướng biển, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; bảo vệ không gian sinh tồn của dân tộc./.
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét