Kỷ nguyên mới cho phát triển kinh tế xanh
Mặc dù năng lực, trình độ và nguồn lực còn nhiều hạn
chế so với các quốc gia phát triển nhưng Việt Nam đang bước vào giai đoạn mới
trong nỗ lực chuyển dịch nền kinh tế theo hướng tăng trưởng xanh với những mục
tiêu chiến lược và cam kết quốc tế rất cao.
Những dấu mốc quan trọng cho kỷ nguyên mới về phát
triển kinh tế xanh đang được thiết lập thông qua việc Chính phủ phê duyệt Chiến
lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050 (Chiến lược);
Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh và gần đây nhất là thành lập
Ban Chỉ đạo quốc gia về tăng trưởng xanh.
Xác
định những vấn đề then chốt
Bên cạnh việc kế thừa có chọn lọc những thành tựu của
Chiến lược tăng trưởng xanh giai đoạn 2011-2020, Chiến lược tăng trưởng xanh của
giai đoạn 2021-2030 được bổ sung nhiều khía cạnh mới, bao gồm khoa học-công nghệ,
đổi mới sáng tạo, ứng dụng công nghệ số, chuyển đổi số và một số khía cạnh xã hội.
Một nội dung đặc biệt quan trọng được thực hiện song
hành với Chiến lược là cam kết của Việt Nam về đạt mức phát thải ròng bằng 0
vào năm 2050 tại Hội nghị lần thứ 26 các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp
quốc về biến đổi khí hậu (COP 26). Mục tiêu này được thực hiện chủ yếu thông
qua chuyển đổi năng lượng mạnh mẽ, phát thải thấp và thay đổi quan trọng đầu
tiên là những nghiên cứu, đề xuất phương án điều chỉnh, cập nhật dự thảo Quy hoạch
điện VIII theo hướng giảm dần phụ thuộc nhiệt điện than, dành sự ưu tiên cao
cho phát triển năng lượng tái tạo với cơ cấu và sự phân bố hợp lý.
Thông tin về vấn đề này, ông Hoàng Tiến Dũng, Cục
trưởng Ðiện lực và Năng lượng tái tạo (Bộ Công thương) cho biết, cam kết của Việt
Nam tại COP 26 đã làm thay đổi hoàn toàn quan điểm phát triển điện lực trong
tương lai. Vì vậy, dự thảo Quy hoạch điện VIII mặc dù trước đó đã trình Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt nhưng phải hiệu chỉnh lại toàn bộ phương án phát triển điện
tới năm 2045 để cập nhật, điều chỉnh theo mục tiêu cam kết tại COP 26. Các yêu
cầu mới buộc quá trình chuyển dịch năng lượng theo hướng tăng trưởng xanh phải
đáp ứng các yêu cầu về bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia trong trung và dài hạn;
xác định cơ cấu năng lượng tối ưu và bền vững của đất nước; thu hút mạnh mẽ đầu
tư vào cơ sở hạ tầng năng lượng; tháo gỡ các điểm nghẽn, thúc đẩy phát triển
các nguồn năng lượng sạch hơn, xanh hơn và các nguồn năng lượng tái tạo. Ðồng
thời phải nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng năng lượng, giảm cường độ sử dụng
năng lượng và sử dụng điện của nền kinh tế, tạo điều kiện để các đối tượng
trong xã hội, mọi tầng lớp nhân dân đều được tiếp cận và thụ hưởng lợi ích từ
các chính sách phát triển năng lượng bền vững với chi phí hợp lý.
Nêu những vấn đề then chốt để chuyển dịch năng lượng
theo hướng tăng trưởng xanh, tiến tới hiện thực hóa khát vọng tăng trưởng xanh
của nền kinh tế, Thứ trưởng Kế hoạch và Ðầu tư Nguyễn Thị Bích Ngọc nhấn mạnh:
Chuyển dịch năng lượng theo hướng xanh, bền vững là xu thế tất yếu và không thể
đảo ngược. Việc sử dụng năng lượng hiệu quả là hết sức quan trọng trong chuyển
dịch năng lượng theo hướng xanh, bền vững nên cần có các biện pháp chủ động hơn
nữa trên phạm vi toàn quốc cũng như tăng cường năng lực tốt hơn cho địa phương.
Quá trình chuyển dịch này của Việt Nam cần nhận được sự đồng hành và hỗ trợ thỏa
đáng từ các tổ chức quốc tế, các đối tác phát triển và doanh nghiệp lớn của thế
giới; với quyết tâm chính trị lớn; sự phối hợp đồng bộ, toàn diện từ tất cả các
bên liên quan; sự đồng lòng của người dân và cộng đồng doanh nghiệp.
Cần
huy động nguồn lực lớn
Cùng với những hoạch định lớn về phương án, chính
sách cho từng nhiệm vụ và hoạt động cụ thể, quy mô về nguồn lực cần thiết huy động
cho tăng trưởng kinh tế xanh cũng bắt đầu được tính toán và công bố.
Trong Báo cáo quốc gia về khí hậu và phát triển cho
Việt Nam công bố mới đây, Ngân hàng Thế giới (WB) dự kiến Việt Nam sẽ cần đầu
tư thêm khoảng 6,8% GDP, tương đương 368 tỷ USD từ nay đến năm 2040 để thực hiện
lộ trình phát triển thích ứng khí hậu và phát thải ròng bằng 0. WB cũng lưu ý,
nếu có các chính sách và chiến lược phù hợp, Việt Nam có thể tận dụng những hoạt
động khử carbon của mình để đạt được mục tiêu phát triển sao cho phát thải khí
nhà kính ròng bằng 0 mà không làm giảm tốc độ tăng trưởng GDP. Các cam kết của
Chính phủ có thể và cần được củng cố bằng sự tham gia của khu vực tư nhân trong
nước và thông qua các nguồn lực tài chính nước ngoài, nhà nước và tư nhân.
Trong khi đó, Cục Biến đổi khí hậu (Bộ Tài nguyên và
Môi trường) cho biết, Việt Nam cần thêm khoảng 100 tỷ USD cho thích ứng biến đổi
khí hậu và 373 tỷ USD để đưa mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Vì vậy,
bên cạnh tinh thần phát huy nội lực cần tăng cường sự hợp tác từ các đối tác
phát triển thông qua những hỗ trợ đủ mạnh về tài chính và kỹ thuật. Sau hội nghị
COP26, các đối tác phát triển, các định chế tài chính quốc tế đã thể hiện mong
muốn và cam kết hợp tác, đồng hành Chính phủ Việt Nam để triển khai thực hiện
các cam kết. Ông Rahul Kitchlu, chuyên gia của WB cho biết, WB sẵn sàng hỗ trợ
Việt Nam trong nỗ lực chuyển dịch năng lượng thông qua hoạt động chia sẻ kiến
thức, kinh nghiệm quốc tế và huy động nguồn vốn chi phí thấp dành cho biến đổi
khí hậu, giúp Việt Nam chuyển dịch năng lượng xanh hiệu quả, bền vững.
Huy động và bố trí nguồn lực cho tăng trưởng xanh là nhiệm vụ quan trọng, có tính chất quyết định đến hiệu quả thực thi chiến lược tăng trưởng xanh trong kỷ nguyên mới. Cơ cấu nguồn lực cho giai đoạn 2021-2030 được huy động từ ngân sách nhà nước, nguồn tài chính hỗ trợ quốc tế, gồm vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), vốn hỗ trợ và vay ưu đãi cho tăng trưởng xanh. Trong cơ cấu nguồn lực còn có vốn vay thương mại và đầu tư tư nhân thông qua các khoản cấp tín dụng xanh, trái phiếu doanh nghiệp xanh; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cho tăng trưởng xanh, thu từ trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon và nguồn vốn cộng đồng, vốn xã hội khác như vốn huy động công-tư cho các dự án xanh, các quỹ đầu tư trong nước nhằm thực hiện mục tiêu tăng trưởng xanh, giảm và thích ứng biến đổi khí hậu.
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét