中国继续增加国防开支

00:47 |
最近,中国已宣布2014年的国防8082.3亿人民1315.7亿美元),比2013年增加了12.2%是中国从2011年以来国防算增加最快的速度。2013年,中国国防算比前年增加了10.7%2012年和2011年的增速度分别为1.2%12.7%连续的国防开支也使中国成世界第二国防开支大国,逐拉近与美国的差距,并远远甩开其他周国家。据统计,中国的国防开支是印度的三倍,并高于日本、国和越南国防开支的和。在中国与周国家海主不断升的情况下,中国增加国防国家有理由感到紧张
但很有可能,中国所宣布的数据只是中国真正的国防开支的冰山一角。国研究认为,中国实际的国防开支高于他所公布的数据。所以,在中国公布2014年国防算不久后,日本指中国在国防开支方面不透明。也是很多国家中国国防开支的印象。很多研究指出,2013年中国真正的国防开支2000亿美元。如果数据是真,那么2014年中国的国防开支将达2240亿美元。将是与中国生主国家的噩梦。
另一个令国社会感到担的是,中国国防开支的增速度在完全不根据GDP的增速度了。有人认为中国前些年国防开支的增加完全符合国国民经济趋势论认为,如果与中国GDP速度相比,中国国防开支并不增太快,意味着国防并不是中国领导人的域。但是,中国2014年的国防算以明相反的象。最近几年,中国经济速度有所减,但国的国防开支仍继续增加。是中国连续三年国防开支的增速度高于GDP的增速度(据乐观的估,中国2014GDP速度将达7.5%)。
另外,注意的是,只是第一年中国在近平主席的领导下公布其国防算。非常明,根据近平主席的领导态度以及中国国防代化趋势,中国国防开支在未来几年将会继续增加。
但也有一个不能忽略的事是,腐败现在是中国军队内部非常普遍的象。也意味着,中国国防开支以一部分将流进军的口袋里。将成阻碍中国军队强大起来的主要因素,同也是于中国生主国家希望看到的象。
 

Đọc thêm...

Trung Quốc lại tăng chi tiêu quốc phòng

00:45 |
Mới đây Trung Quốc đã công bố ngân sách quốc phòng của mình trong năm 2014 là 808,23 tỉ NDT (khoảng 131,57 tỉ USD), tăng 12,2% so với năm 2013. Đây là tỉ lệ tăng ngân sách quốc phòng cao nhất của Trung Quốc kể từ năm 2011. Năm 2013, ngân sách quốc phòng của Trung Quốc đã tăng 10,7% so với năm trước đó, trong khi tỉ lệ này ở các năm 2012 và 2011 cũng lần lượt là 11,2% và 12,7%. Chi tiêu quốc phòng tăng liên tục tăng trong những năm gần đây đã đưa Trung Quốc trở thành nước có ngân sách quốc phòng đứng thứ 2 thế giới, dần thu hẹp khoảng cách với Mỹ và vượt xa các nước còn lại trong khu vực. Theo đó, ngân sách quốc phòng của Trung Quốc đã gấp 3 lần Ấn Độ, và còn nhiều hơn cả ngân sách quốc phòng của Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam cộng lại. Điều này đã làm gia tăng lo ngại cho các nước láng giềng của Trung Quốc, trong bối cảnh Trung Quốc đang có những tranh chấp lãnh thổ, lãnh hải với nhiều nước láng giềng.
Nhưng rất có thể, con số Trung Quốc công bố chỉ là phần nổi của một tảng băng chìm khổng lồ. Các nhà phân tích tin rằng Trung Quốc trên thực tế còn chi cho quân đội nhiều hơn con số công bố rất nhiều. Chính vì thế, không lâu sau khi Trung Quốc công bố kế hoạch tăng ngân sách của mình, Nhật đã cáo buộc Trung Quốc thiếu minh bạch về chi tiêu quốc phòng. Đây cũng là ấn tượng chung của nhiều nước đối với con số chi tiêu của Trung Quốc dành cho quốc phòng. Nhiều báo cáo cho biết trong năm 2013, chi tiêu quốc phòng của Trung Quốc ở mức gần 200 tỉ USD. Và nếu con số trên là sự thực, rõ ràng sẽ là sự đe dọa thực sự đối với các nước đang có tranh chấp với Trung Quốc.
Một điều đáng lo ngại nữa là, dường như hiện nay việc tăng chi tiêu quốc phòng của Trung Quốc đã không còn phụ thuộc vào tỉ lệ tăng trưởng GDP của nước này nữa. Nhiều người cho rằng sự gia tăng chi tiêu quốc phòng của Trung Quốc trong thập kỉ trước hoàn toàn phù hợp với sự phát triển chung của nền kinh tế quốc gia. Lập luận này nhằm trấn an dư luận rằng nếu đem so với tăng trưởng GDP thì ngân sách quốc phòng của Trung Quốc không hề tăng, đồng nghĩa với việc quốc phòng không phải là lĩnh vực ưu tiên hàng đầu của các nhà lãnh đạo Trung Quốc. Tuy nhiên, ngân sách quốc phòng năm 2014 của Trung Quốc đã chứng tỏ điều hoàn toàn ngược lại. Trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc đã chững lại trong những năm gần đây thì ngân sách quốc phòng của nước này vẫn tiếp tục tăng. Đây là năm thứ ba liên tiếp tỉ lệ tăng ngân sách quốc phòng của Trung Quốc cao hơn tỉ lệ tăng trưởng của nền kinh tế nước này (theo dự đoán có phần lạc quan của Trung Quốc, con số này chỉ đạt 7,5% năm 2014).
Và cần phải nhớ rằng, đây mới là năm đầu tiên dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Tập Cận Bình, Trung Quốc công bố ngân sách quốc phòng. Và rõ ràng với thái độ lãnh đạo cứng rắn của ông Tập Cận Bình cũng như xu hướng hiện đại hóa quốc phòng của Trung Quốc, xu hướng tăng chi tiêu quốc phòng của Trung Quốc được sự báo là sẽ còn kéo dài trong nhiều năm nữa.
Nhưng có một thực tế không thể bỏ qua là, nạn tham nhũng đang rất phổ biến trong nội bộ quân đội Trung Quốc. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc một phần ngân sách quốc phòng sẽ chảy vào túi riêng của các sĩ quan quân đội. Nó sẽ là nhân tố chính cản trở sự lớn mạnh của quân đội Trung Quốc, và đây có lẽ chính là điều các nước đang có tranh chấp với Trung Quốc hi vọng nhìn thấy.
 
 

Đọc thêm...

越南积极搜寻马航失联飞机

00:15 |

3月8日,据马来西亚的通知,承载227名乘客(其中包括153名中国公民)和12名机组人员从马来西亚吉隆坡飞往北京的马来西亚国家航空公司MH370飞机当在马来西亚和越南的交接处时与地面管控区失去联系。在接到该通知后,越南党和政府密切关注该事件,并直接指示职能部门尽一切努力,使用通过所有办法进行搜救工作。从空军、海军等先进的搜救力量到渔民都被调动参加搜救工作。越南已调动多艘巡逻建,多架飞机在事发地点和附近区域进行搜寻。每当出现关于飞机失联的新消息时,越南都立即派遣巡逻建和飞机前往查证、搜寻。越南的救难人员不管困难和危险,尽一切努力,希望最早搜寻出失联飞机的下落。越南国家搜救委员会24小时连续值班,并成立前方搜救指挥部直接指挥搜救工作。越南外交部也成立特别工作组,24小时连续值班,与其他职能部门配合处理该事件。
另外,越南也积极与其他国家配合、交流信息,为其他国家在越南领土上进行搜救创造便利条件。越南国防部已经允许并为中国、马来西亚、新加坡等国的飞机在越南领土上参加搜救创造便利条件。
虽然MH370失踪已经6天,但越南仍然继续搜寻工作,越南搜救力量随时准备出发执行给人以。3月13日早上,越南已派遣CASA巡逻侦察记前往中国卫星拍摄到大型漂浮物的地点,但是并未发现任何线索。当天下午,越南海军HQ637船继续前往该区域,与侦察机配合搜寻。在之前的3月12日上午,AN26和CASA巡逻机已将将搜寻范围扩大到越南金瓯省南方和东南方。
中国方面就越南对搜寻工作的不懈努力表示感谢,并认为越南已及时、积极进行搜救工作,已经调动大量飞机和船只在海上和空中进行大范围的搜寻。越南已表现出国际人道精神和自己高尚的精神。马来西亚也对越南的帮助给予高度的评价。
MH370号班机是马来西亚国家航空公司Boeing 777-200型的飞机,该班机于3月8日凌晨0:41离开吉隆坡国际机场,原定计划于6:30抵达北京首都国际机场。班机上的乘客来自13个不同的国家,其中大部分来自中国。在飞行大概2梁时候,该班机与马来西亚空管中心失去联系。目前已有来自越南、中国、马来西亚、澳大利亚、印度、印度尼西亚、新西兰、美国9个国家的42艘船只和39架飞机参加搜寻工作。虽然已经开展历史上最大的搜救工作,但到目前该班机的下落仍扔是个迷局。



Đọc thêm...

Nỗ lực của Việt Nam trong việc tìm kiếm máy bay Malaysia mất tích

00:12 |


Ngày 8/3, theo thông báo từ phía Malaysia, máy bay MH370 của hãng hàng không quốc gia Malaysia chở 227 hành khách (trong đó có 153 người Trung Quốc) và 12 phi hành đoàn cất cánh từ sây bay Kual Lumpur để đến sân bay ở Thủ đô Bắc Kinh (Trung Quốc) đã biến mất khỏi màn hình radar khi đang bay ở vùng giữa không phận Malaysia và VN ở Biển Đông. Ngay sau khi nhận được thông tin trên, Lãnh đạo Đảng và Nhà nước VN hết sức quan tâm, trực tiếp chỉ đạo quyết liệt các lực lượng, cơ quan chức năng huy động mọi phương tiện, tiến hành mọi biện pháp để tìm kiếm máy bay mất tích nói trên. Nhiều lực lượng và phương tiện hiện đại nhất được huy động để tham gia tìm kiếm, nhất là lực lượng không quân, hải quân, kể cả ngư dân. VN đã điều động nhiều tàu và máy bay triển khai tìm kiếm ở khu vực nghi máy bay gặp nạn và mở rộng ra cả những khu vực xung quanh. Cứ hễ có thông tin từ các nước cho biết có dấu vết máy bay rơi ở đâu là VN lại điều tàu và máy bay đến tận nơi để kiểm tra và tìm kiếm, cứu nạn. Các lực lượng cứu nạn, cứu hộ của VN không quản ngại khó khăn, nguy hiểm, luôn cố gắng tối đa có thể để tìm ra manh mối của máy bay mất tích. Ủy ban Quốc gia về tìm kiếm cứu nạn VN trực chỉ huy 24/24 giờ và thành lập Sở chỉ huy phía Nam đặt tại đảo Phú Quốc trực tiếp chỉ đạo công tác tìm kiếm. Bộ Ngoại giao VN cũng lập nhóm công tác đặc biệt ứng trực 24/24 để phối hợp với các cơ quan chức năng khác xử lý vụ việc. 
Bên cạnh đó, VN còn tích cực phối hợp, trao đổi thông tin, tạo mọi điều kiện để các nước khác tham gia tìm kiếm máy bay mất tích trong lãnh thổ của Việt Nam. Bộ Quốc phòng VN đã cấp phép và tạo mọi điều kiện cho máy bay các nước Trung Quốc, Malaysia, Singapore... tham gia tìm kiếm trên lãnh thổ VN. 
Mặc dù bước sang ngày thứ 6 kể từ khi máy bay MH370 mất tích, VN vẫn không ngừng tìm kiếm và các lực lượng, phương tiện luôn trong tư thế sẵn sàng nhận nhiệm vụ. Sáng ngày 13/3, Việt Nam đã điều tàu bay tuần thám biển CASA ra vị trí phát hiện vật thể nghi là mảnh vỡ máy bay mà phía Trung Quốc đã chụp được qua vệ tinh, tuy nhiên vẫn chưa phát hiện được dấu hiệu gì. Chiều cùng ngày tàu HQ 637 tiếp tục đến khu vực đó và phối hợp với máy bay tìm kiếm. Trước đó sáng ngày 12/3, máy bay AN26 và Casa đã tìm kiếm mở rộng về phía Nam và Đông Nam mũi Cà Mau. 
Trước nỗ lực không biết mệt mỏi nói trên của VN, Trung Quốc đã gửi lời cảm ơn Việt Nam và cho rằng VN đã quan tâm, hỗ trợ hết sức kịp thời, tích cực cho việc tìm kiếm máy bay mất tích, đã huy động nhiều tàu thuyền và máy bay tích cực tìm kiếm tại một khu vực rộng lớn trên không cũng như trên biển. VN đã thể hiện tinh thần nhân đạo quốc tế và phẩm chất cao cả của mình. Malaysia cũng đã hoan nghênh và đánh giá cao sự giúp đỡ, hợp tác của Việt Nam trong việc triển khai công tác tìm kiếm máy bay MH370. 
Máy bay MH370 là chiếc máy bay Boeing 777-200 xuất phát từ Kual Lumpur lúc 0h41 sáng và dự kiến hạ cánh ở sân bay Bắc Kinh vào lúc 6h30 phút ngày 8/3. Hành khách đi trên máy bay mang 13 quốc tịch khác nhau, trong đó chủ yếu là người Trung Quốc. Chiếc máy bay đã mất liên lạc với bộ phận kiểm soát không lưu chỉ 2 giờ sau khi cất cánh từ Kuala Lumpur.  Hiện có 42 tàu và 39 máy bay của 9 nước (VN, Trung Quốc, Malaysia, Singapore, Australia, Ấn Độ, Indonesia, New Zealand, Mỹ) tham gia tìm kiếm máy bay mất tích MH370. Mặc dù cuộc tìm kiếm có thể nói lớn nhất trong lịch sử được triển khai nhưng cho đến nay số phận của chiếc may bay nói trên vẫn còn là ẩn số.


Đọc thêm...

为何《东海行为准则》(COC)进展缓慢?

22:51 |

             3月7日,中国外交部发言人秦刚宣布中国愿同东盟合作建立《东海行为准则》(COC)。秦刚就在第十届中国与东盟落实《东海行为宣言》(DOC)联合工作组会议即将召开之际作出该宣布。据计划,该会议将于3月18日在新加坡进行。但是,实际上,这些年来COC谈判过程获得的进展是非常缓慢的。
 
               实际上,东盟与中国在东海争议解决问题上已达成一份协议,那就是于2002年签署的|《东海各方行为宣言》(DOC)。在那份协议中,东盟同中国同时承诺将尊重东海的国际法律和海上航行自由,同意“通过和平办法,不使用武力或威胁使用屋里解决领土主权争议”,保持克制,避免是争议局势进一步升级。双方也承诺将寻找一部正式的行为准则,旨在“进一步推动地区的和平与稳定”。但是,十多年过去了,COC的谈判却进展得非常缓慢。

              为何出现此情况。首先是因为东盟缺乏统一。并不是10个东盟成员国都与中国发生东海主权争议。甚至,在与中国发生东海主权争议的越南、马来西亚、菲律宾、文莱4个国家中,每个国家的态度也并不相同。在越南和菲律宾保持强硬立场,坚决反对中国的非法要求的同时,马来西亚和文莱却表现出忍让态度。老挝、柬埔寨、缅甸、泰国等国对东海争议问题并不太感兴趣。特别是柬埔寨,中国目前是柬埔寨非常重要的合作伙伴,去年还承诺向柬埔寨提供5亿美元的资金援助。在缅甸,中国占该国外国直接投资总额的三分之一。东盟的不统一易造成2012年东盟外长会议的失败。在成立后历史中首次东盟外长会议结束而未能通过联合声明。

            但更重要的原因来自于中国。中国具有独占东海的野心,该野心已经在中国近期的立场、政策和实际行动中明显地表现出来。中国海军经常在争议区域中进行军事演习,中国海警经常在争议海域中进行巡逻,宣示其主权。而COC的草案被认为将提出立即停止在争议海域中进行军事演习、并再次强调保证东海的航行自由。如果在这样的一份协议中签字,中国不亚于给自己开刀。所以,拖延COC的谈判进程才符合中国的利益。所以,这些年来,中国一直宣称东海争议是直接参与争端国家之间的事,地区外国家不应该干涉。换句话说,如果美国还参与东海争议的话,中国将不会推动COC的谈判。所以,达成COC的希望看来还非常渺茫。



Đọc thêm...

Vì sao COC tiến triển chậm?

22:48 |

          Ngày 7/3, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc, ông Tần Cương tuyên bố Trung Quốc sẵn sàng cộng tác với Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) để xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC). Những bình luận trên của ông Tần Cương được đưa ra trước thềm Cuộc họp nhóm công tác chung lần thứ 10 giữa Trung Quốc và ASEAN về việc thực thi Tuyên bố về ứng xử của các bên trên Biển Đông (DOC). Dự kiến, cuộc họp này sẽ diễn ra vào ngày 18/3 tới tại Singapore. Tuy nhiên, trên thực tế, những tiến bộ đạt được trong đàm phán COC giữa các bên trong những năm qua là hết sức hạn chế.

           Trên thực tế, giữa ASEAN và Trung Quốc đã có một thỏa thuận về biển Đông, đó là “Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở biển Đông” (DOC) ký kết năm 2002. Cả ASEAN và Trung Quốc vào thời điểm đó cùng cam kết tôn trọng luật pháp quốc tế và tự do hàng hải trên biển Đông, đồng ý “giải quyết tranh chấp lãnh thổ và quyền tài phán bằng biện pháp hòa bình, không đe dọa hay sử dụng vũ lực” đồng thời tự kiềm chế hành động đơn phương, tránh làm phức tạp hoặc leo thang thêm tình hình tranh chấp. Hai bên cũng thỏa thuận sẽ tìm kiếm một bộ các quy tắc ứng xử chính thức để “thúc đẩy hơn nữa hòa bình và ổn định khu vực”. Tuy nhiên, hơn 10 năm trôi qua, có rất ít sự chuyển biến đáng kể trong nỗ hình thành một thỏa thuận kế tiếp.
           Nguyên nhân của tình trạng trên, trước hết là do sự thiếu thống nhất của ASEAN. Không phải tất cả 10 thành viên ASEAN đều có tranh chấp với Trung Quốc. Thậm chí, trong số 4 nước có liên quan là Việt Nam, Malaysia, Philippines và Brunei, thái độ của mỗi nước đối với vấn đề lại khác. Trong khi Việt Nam và Philippines giữ một thái độ cứng rắn, kiên quyết phản đối các tuyên bố vô lý của Trung Quốc, thì Malaysia và Brunei lại có phần “nhún nhường” và “’im lặng”. Những nước còn lại như Lào, Campuchia, Myanmar và Thái Lan ít quan tâm đến các vấn đề tranh chấp liên quan đến Trung Quốc - đối tác kinh tế quan trọng, chiếm đến 12% giá trị thương mại của toàn khối ASEAN. Đặc biệt, đối với Campuchia, Trung Quốc là đối tác cực kỳ hấp dẫn với lời hứa viện trợ 500 triệu USD vào năm ngoái. Tại Myanmar, Trung Quốc chiếm gần 1/3 tổng giá trị các khoản đầu tư trực tiếp nước ngoài. Sự bất đồng về cách xử lý một đề xuất quy tắc ứng xử trên biển Đông đã phá hỏng Hội nghị Bộ trưởng ASEAN năm 2012. Lần đầu tiên trong lịch sử hình thành và phát triển, một hội nghị cấp cao của ASEAN kết thúc mà không đưa ra được một tuyên bố chung. 

             Nhưng nguyên nhân quan trọng hơn lại xuất phát từ phía Trung Quốc. Trung Quốc có tham vọng độc chiếm Biển Đông và điều đó được thể hiện rõ qua lập trường, chính sách và những hành động của Bắc Kinh thời gian gần đây. Hải quân Trung Quốc thường xuyên tiến hành các cuộc tập trận trong khu vực đang tranh chấp, Cảnh sát biển Trung Quốc liên tục tuần tra nhằm khẳng định tuyên bố chủ quyền các vùng biển. Trong khi đó, dự thảo COC được cho là đã đề xuất chấm dứt ngay các cuộc tập trận quân sự trên vùng biển tranh chấp và tái khẳng định tự do hàng hải trong khu vực, đồng thời đưa ra các quy định ngăn chặn tai nạn hàng hải. Đặt bút ký vào một thỏa thuận như thế, chẳng khác nào Trung Quốc đang tự bóp cổ mình. Chính bởi vậy, trì hoãn một nguyên tắc ứng xử trên biển Đông, Trung Quốc được nhiều hơn mất. Chẳng thế mà Trung Quốc một mực cho rằng tranh chấp Biển Đông là việc nội bộ của các nước có liên quan trong khu vực và nước ngoài không nên can thiệp. Nói cách khác, Trung Quốc muốn loại Mỹ ra khỏi những cuộc đàm phán khu vực, và sẽ không thúc đẩy tiến độ đàm phán bộ quy tắc ứng xử chừng nào Mỹ vẫn còn can dự. Bởi vậy, hi vọng đạt được thỏa thuận về COC xem ra vẫn còn rất xa vời./.

Đọc thêm...

越南 - 印尼战略伙伴关系和东海问题

21:09 |

印度尼西亚人民协商会议主席西达尔托(Sidarto Danusubroto)率领印度尼西亚人民协商会议高级代表团从31日至5对越南进行正式访问。访越期间,西达尔托主席同越南国会主席阮生雄、越南政府总理阮晋勇进行会谈。西达尔托主席对越南领导人给予的隆重接待表示感谢,对越南 - 印尼关系的良好发展表示高兴,认为两国关系的发展对两国发展带来切实的利益。西达尔托主席也肯定称,越南 - 印尼两国关系历史悠久、发展良好并得到两国领导的精心栽培。两国将为巩固并深化越南 - 印尼战略伙伴关系做出一切努力,为东南亚地区的和平、稳定与发展做出贡献。
关于东海问题,阮晋勇总理与阮生雄主席对印尼关于东海的六点倡议给予高度评价,并建议区域有关各方严肃落实所签署的协议,旨在保障海上和陆地和平安全,为维护区域和平环境做出贡献。对印尼关于东海的六点倡议给予高度评价,并建议区域有关各方严肃落实所签署的协议,旨在保障海上和陆地和平安全,为维护区域和平环境做出贡献。西达尔托主席对阮生雄主席关于东海问题的意见表示高度赞成。西达尔托主席肯定,东海问题应通过和平和对话方式加以解决,为维护区域稳定做出贡献。
印尼是东盟组织(ASEAN)创始国家之一,在该组织中的地位也越来越增加。对然不是东海主权争议的直接参与国,但印尼对地区的和平、稳定与发展表现出高度责任,并对解决东海争议表现出积极态度。在于20127月在柬埔寨举行的第21届东盟峰会因东海问题而在成立后首次不能达成联合声明并使东盟的形象受到严重的损害后,印尼外长马蒂紧急对菲律宾、越南、柬埔寨等6个东盟成员国展开访问,最终达成关于东海问题六点原则的声明:1、充分落实《东海各方行为宣言》(DOC );2、落实《东海各方行为宣言》指针案文(2011 );3、早日完成制定东海行为(区域性)准则;4、充分尊重《1982年联合国海洋法公约》等国际法的各项原则;5、各方继续保持克制,不使用武力;6、在国际法尤其是《1982年联合国海洋法公约》的基础上和平解决海上争端。
《关于东海问题六点原则的声明》在东盟峰会刚结束一周后的出现对巩固东盟的团结一致作出重要的贡献。因此,印尼的努力的得到国际和地区社会的高度评价,印尼的位置也得到提高。
越南与印尼在东南亚地区以及东盟组织扮演着非常重要的角色。两国对国际和地区问题具有相似的立场,在国际论坛中也经常互相配合。20136月两国已将两国关系提升为战略伙伴关系,并签署《2014-2018年行动计划》。这是两国关系在60年发展中的重要历史里程碑。相信经过两国领导人的努力以及两国人民的大力支持,两国的战略伙伴关系将继续发展,为两国人民的其实利益做出贡献,为世界以及亚太地区的和平、稳定与发展做出贡献。


Đọc thêm...

Quan hệ Đối tác Chiến lược Việt Nam – Indonesia và vấn đề Biển Đông

21:07 |

Đoàn đại biểu cấp cao Hội đồng Hiệp thương Nhân dân Indonesia do Chủ tịch Hội đồng Sidarto Danusubroto dẫn đầu đã kết thúc chuyến thăm chính thức Việt Nam từ ngày 1-5/3. Tại Việt Nam, đoàn đã có các cuộc hội đàm với Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Chủ tịch Hội đồng Sidarto Danusubroto đã cảm ơn sự đón tiếp trọng thị, nồng ấm của các nhà lãnh đạo nước chủ nhà dành cho đoàn, bày tỏ sự vui mừng trước sự phát triển hết sức tốt đẹp của mối quan hệ Việt Nam – Indonesia, kết quả này đã mang lại lợi ích thiết thực cho sự phát triển chung của cả hai nước, đồng thời khẳng định Việt Nam và Indonisia có quan hệ hữu nghị truyền thống tốt đẹp và được lãnh đạo cấp cao hai nước dày công vun đắp và hai bên sẽ tiếp tục làm hết sức mình để củng cố, làm sâu sắc thêm mối quan hệ đối tác chiến lược Việt Nam – Indonesia, hai nước sẽ cùng nổ lực, đóng góp tích cực cho hòa bình, ổn định và phát triển ở khu vực Đông Nam Á. 
Về vấn đề Biển Đông, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng đã đánh giá cao sáng kiến 6 điểm của Indonesia về vấn đề Biển Đông và đề nghị các bên liên quan tranh chấp thực hiện nghiêm túc Tuyên bố Ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) tiến tới thông qua Bộ Quy tắc Ứng xử (COC) vì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển trong khu vực. Chủ tịch Hội đồng Sidarto Danusubroto cũng có cùng quan điểm và nhấn mạnh vấn đề Biển Đông cần được giải quyết bằng con đường hòa bình và đối thoại, góp phần bảo đảm môi trường ổn định trong khu vực.
Indonesia là một trong những nước đầu tiên sáng lập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và vai trò, uy tín của nước này trong khối ngày càng tăng. Mặc dù là nước không liên quan đến tranh chấp Biển Đông, nhưng Indonesia luôn thể hiện là một thành viên có trách nhiệm đối với hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực nên luôn đi đầu trong việc tìm giải pháp thích hợp cho vấn đề Biển Đông. Điều này thể hiện rõ nhất qua sự kiện: sau khi  Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 21 được tổ chức tại Campuchia tháng 7/2012 lần đầu tiên trong lịch sử đã không ra được tuyên bố chung về vấn đề Biển Đông khiến cho vai trò, uy tín của ASEAN bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Trước tình hình đó, Ngoại trưởng Indonesia Marty Natalegawa đã tiến hành hoạt động ngoại giao con thoi đến các nước ASEAN, gặp các ngoại trưởng ASEAN, trong đó có cuộc các cuộc gặp trực tiếp các Ngoại trưởng Philipines, Việt Nam và Campuchia để thống nhất nguyên tắc chung về vấn đề Biển Đông. Kết quả là các ngoại trưởng ASEAN đã thông qua Tuyên bố về nguyên tắc 6 điểm về Biển Đông: 1. Thực hiện đầy đủ Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) (2002). 2. Quy tắc hướng dẫn thực hiện DOC (2011). 3. Sớm đạt được Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC). 4. Tôn trọng hoàn toàn các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 (UNLOS). 5. Tất cả các bên tiếp tục kiềm chế và không sử dụng vũ lực. 6. Giải quyết hòa bình các tranh chấp trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 (UNLOS).
Việc ra nguyên tắc 6 điểm nói trên đã tạo cơ sở để đảm bảo các bên liên quan tôn trọng, tuân thủ trong hành xử ở Biển Đông và khẳng định các hành vi vi phạm những nguyên tắc này sẽ ảnh hưởng tới ASEAN. Việc thông qua nguyên tắc 6 điểm  về Biển Đông chỉ một tuần sau Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 21 nói trên đã góp phần củng cố sự đoàn kết, nhất trí trong ASEAN đối với vấn đề Biển Đông, trấn an dư luận quốc tế cho rằng ASEAN đang bị chia rẽ sâu sắc. Với ý nghĩa đó, nỗ lực trên của Indonesia đã được cộng đồng quốc tế và khu vực đánh giá cao, nhờ đó vai trò và uy tín của nước này càng được nâng cao.
Việt Nam và Indonesia là hai nước có vai trò quan trọng hàng đầu trong. Hai nước thường có lập trường, quan điểm tương đồng đối với hầu hết các vấn đề khu vực và quốc tế, luôn ủng hộ nhau, phối hợp chặt chẽ với nhau tại các diễn đàn quốc tế và khu vực. Hai nước đã chính thức nâng mối quan hệ lên tầm quan hệ đối tác chiến lược vào tháng 6/2013 và hai bên đã ký Chương trình hành động giai đoạn 2014-2018 triển khai quan hệ Đối tác chiến lược vào tháng 10/2013. Đây là dấu mốc quan trọng, đánh dấu sự phát triển vượt bậc của quan hệ hai nước trong gần 60 năm qua. Với quyết tâm của lãnh đạo hai nước, Quan hệ Đối tác Chiến lược Việt Nam – Indonesia sẽ phát triển tốt đẹp, phục vụ lợi ích thiết thực của nhân dân hai nước cũng như đóng góp tích cực cho hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở châu Á – Thái Bình Dương và thế giới.


Đọc thêm...

Hot (焦点)