Home » biendao - tiếng Việt
Thứ Bảy, 29 tháng 4, 2017
Chính sách Biển Đông của Lào: Nguyên nhân và tác động (phần 2)
2. Nguyên
nhân chính sách Biển Đông của Lào
Chính sách
ngoại giao là biện pháp chiến lược thực hiện các mục tiêu tương ứng mà chính phủ
của một nước áp dụng trong quá trình trao đổi với các thực thể khác. Trong
tranh chấp Biển Đông, đối sách cơ bản mà Lào áp dụng về căn bản là để bảo vệ lợi
ích quốc gia của nước này. Cụ thể, đặc trưng chính sách ngoại giao trong giai
đoạn hiện nay của Lào, quan hệ Lào-Trung, quan hệ Lào-Việt và nỗi lo nước nhỏ của
Lào… có ảnh hưởng quan trọng đối với chính sách Biển Đông của Lào.
Một là Lào
thực hiện chính sách ngoại giao toàn diện thiết thực, linh hoạt. Sau khi thành
lập chính phủ năm 1975, Đảng nhân dân cách mạng Lào thực hiện chính sách ngoại
giao “nghiêng về” Việt Nam và Liên Xô, không gian hoạt động quốc tế rất hạn hẹp.
Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, Lào đã phá vỡ đường lối ngoại giao truyền thống,
thực hiện chính sách ngoại giao tích cực và linh hoạt hơn, nỗ lực phát triển
quan hệ hữu nghị với các nước. Tháng 3/2011, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
9 của Đảng nhân dân cách mạng Lào đưa ra chính sách ngoại giao “5 đa” – đa dạng
hóa, đa phương diện, đa phương hóa, đa tầng nấc và đa hình thức. Tháng 1/2016,
Đảng nhân dân cách mạng Lào kiên trì đường lối ngoại giao hòa bình, độc lập, hữu
nghị và hợp tác, triển khai hợp tác đối ngoại toàn diện, lĩnh vực rộng mở, đa tầng
nấc. Nội dung quan trọng mới trong ngoại giao của Lào nằm ở chỗ tăng cường liên
hệ kinh tế với thế giới, tích cực tìm kiếm sự đầu tư và viện trợ bên ngoài, dốc
sức mở rộng thị trường quốc tế, coi phát triển kinh tế trong nước và nâng cao mức
sống của người dân là biện pháp quan trọng để củng cố chính quyền xã hội chủ
nghĩa và địa vị cầm quyền của Đảng nhân dân cách mạng Lào. Trong bối cảnh chính
sách ngoại giao mới này, Lào giữ thái độ tương đối thờ ơ đối với tranh chấp quốc
tế có mối liên hệ không lớn với nước mình, cố gắng không làm mất lòng bất kỳ
bên nào, để tránh ảnh hưởng đến sự triển khai của ngoại giao toàn diện. Trong vấn
đề Biển Đông, với tư cách là nước thành viên của ASEAN, Lào không hy vọng khu vực
xuất hiện các vụ việc không ổn định thậm chí là xảy ra chiến tranh, lo ngại sự
can dự của các nước lớn bên ngoài khu vực sẽ làm phức tạp hóa vấn đề, cũng
không muốn mình bị liên lụy một cách vô cớ. Ngoài ra, sau khi Lào gia nhập
ASEAN, luôn coi ASEAN là diễn đàn quan trọng để mình thể hiện năng lực ngoại
giao, phát huy vai trò khu vực và nâng cao ảnh hưởng quốc tế, bảo vệ sự đoàn kết
của nội bộ ASEAN là xem xét lớn nhất trong chính sách Biển Đông của Lào.
Hai là quan
hệ mật thiết Lào-Trung. Chính phủ Lào phản đối đa phương hóa và quốc tế hóa
tranh chấp Biển Đông và nhiều lần ngăn cản mưu đồ của các nước như
Philippines... đưa vấn đề Biển Đông vào tuyên bố chung của ASEAN, có tiếng nói
chung nhiều hơn với chủ trương của Trung Quốc. Sau khi ASEAN đưa ra tuyên bố
chung tháng 7/2016, khi gặp gỡ Bộ trưởng Ngoại giao Lào, Bộ trưởng Ngoại giao
Trung Quốc Vương Nghị ca ngợi chính phủ nước này kiên trì lập trường Biển Đông
công bằng, khách quan. Trên thực tế, chính sách Biển Đông tương đối thiên về
Trung Quốc của Lào không thể tách rời quan hệ hữu nghị giữa Lào và Trung Quốc.
Về chính trị, hai nước đều là quốc gia xã hội chủ nghĩa, chế độ xã hội tương đồng,
nhiệm vụ phát triển giống nhau, viếng thăm cấp cao lẫn nhau không ngừng, trao đổi
các cấp liên tục diễn ra, Đảng Cộng sản Trung Quốc và Đảng nhân dân cách mạng
Lào duy trì sự hợp tác cao độ giữa hai chính đảng. Năm 2009, Lào và Trung Quốc
tuyên bố thiết lập quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện, hai nước còn
chủ trương thực hiện phương châm “4 tốt” - láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí
tốt, đối tác tốt. Quan hệ “4 tốt” cũng trở thành biểu tượng lớn nhất cho sự hữu
nghị về chính trị giữa Trung Quốc và Lào, trở thành bảo đảm quan trọng để hai đảng
và hai nước phát triển quan hệ ở tầng nấc cao hơn. Về kinh tế, Lào có ưu thế
tài nguyên khác với Trung Quốc, tài nguyên tự nhiên của Lào rất phong phú, còn
Trung Quốc có công nghệ tương đối tiên tiến, thị trường to lớn và ưu thế nguồn
vốn dồi dào, tính bổ sung về kinh tế giữa hai nước tương đối mạnh mẽ. Hiện nay,
Trung Quốc đã trở thành đối tác thương mại lớn thứ hai và nước đầu tư lớn nhất
của Lào, lĩnh vực đầu tư liên quan đến thủy điện, khai thác khoáng sản, thương
mại dịch vụ, vật liệu xây dựng, trồng trọt, sản xuất dược phẩm... Có nhà quan
sát nước ngoài cho rằng hiện nay, Trung Quốc là nước đầu tư lớn nhất của Lào,
vì vậy đã thúc đẩy tích cực lợi ích của Trung Quốc ở ASEAN. Cùng với việc phát
triển Tiểu vùng sông Mekong được thúc đẩy đi vào chiều sâu và Trung Quốc triển
khai xây dựng “Một vành đai, một con đường”, đặc biệt là việc xây dựng Ngân
hàng đầu tư cơ sở hạ tầng châu Á (AIIB), quan hệ kinh tế thương mại Trung-Lào sẽ
ngày càng mật thiết, sự phụ thuộc về kinh tế của Lào đối với Trung Quốc sẽ tăng
lên.
Ba là quan hệ
đặc biệt Lào-Việt Nam. Do các nguyên nhân như địa lý, lịch sử và hiện thực, Lào
giữ quan hệ đặc biệt với Việt Nam. Lào và Việt Nam có biên giới chung dài 1.650
km, Việt Nam là đường ra biển tiện lợi nhất của Lào, có ảnh hưởng quan trọng đối
với mối liên hệ kinh tế đối ngoại của Lào. Do nguồn gốc sâu xa của Đảng Cộng sản
Việt Nam và Đảng nhân dân cách mạng Lào, quan hệ đặc biệt giữa hai đảng được cụ
thể hóa ở quan hệ đặc biệt giữa hai nước. Năm 1977, Lào và Việt Nam ký “Hiệp ước
hợp tác hữu nghĩa Lào-Việt”, đặt cơ sở pháp lý cho quan hệ đặc biệt giữa hai nước.
Đúng như học giả người Anh Grant Evans từng nói “Trong thời kỳ cách mạng thập
niên 70 của thế kỷ 20, Việt Nam và Lào có quan hệ giống như thầy với trò”. Lào
rất coi trọng tình hữu nghị với Việt Nam, cố Chủ tịch Lào Kaysone Phomvihane
miêu tả một cách hình tượng quan hệ Lào-Việt là quan hệ “gắn bó như răng với
môi”. Năm 2012, nhân dịp hai nước kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao
và 35 năm ký kết “Hiệp ước hữu nghị hợp tác”, hai nước đều tuyên bố phải gìn giữ
quan hệ đặc thù hai nước mãi mãi xanh tươi, ổn định lâu dài. Hiện nay Việt Nam
là đối tác thương mại lớn thứ 3 của Lào, là nước đầu tư quan trọng, cũng là đối
tượng ngoại giao ưu tiên của Lào. Chính địa vị quan trọng đặc biệt của Việt Nam
trong ngoại giao Lào, Lào có thái độ tương đối thận trọng đối với tranh chấp Biển
Đông có Việt Nam bị cuốn vào trong đó, lo ngại sẽ làm cho Việt Nam không hài
lòng. Lào rất không muốn nhìn thấy vì vấn đề Biển Đông mà làm cho Việt Nam và
Trung Quốc xảy ra xung đột, từ đó khiến cho Lào ở cảnh ngộ bất lợi tương đối
khó xử. Vì vậy, chính sách “không lựa chọn đứng về bên nào” mà Lào áp dụng là
hành động bắt buộc để đối phó với tranh chấp Biển Đông, cũng là hành động được
quyết định bởi vị thế ngoại giao đặc biệt của nước này.
Thứ tư là
Lào xem xét vấn đề an ninh của nước mình với tư cách là nước nhỏ trong khu vực.
Trong trạng thái vô chính phủ, mong muốn sinh tồn và nhu cầu an ninh của nước
nhỏ mạnh mẽ hơn nước lớn. Nhưng khả năng bảo vệ an ninh và độc lập của nước nhỏ
tương đối hạn chế, khiến cho sự lo ngại về sinh tồn của nước nhỏ tương đối mạnh
mẽ. Do tính hạn chế của nguồn lực bên trong, phương thức tự giúp mình của nước
nhỏ để thực hiện mục tiêu an ninh xem ra tương đối khó khăn, vì vậy việc phải
tìm kiếm một cách tích cực nguồn lực bên ngoài để đạt được động cơ sinh tồn đã
trở thành sự lựa chọn chiến lược lớn nhất của nước nhỏ. Đúng như Robert L.
Rothstein từng nói “Nước nhỏ không thể thông qua năng lực của bản thân để giành
lấy an ninh, để thực hiện an ninh bản thân, về cơ bản phải dựa vào sự giúp đỡ về
cơ chế, tiến trình và phát triển từ bên ngoài”. Lào được coi là nước nhỏ cũng
có mối quan tâm an ninh tương tự và biện pháp an ninh tương ứng. Thông qua việc
tích cực hội nhập ASEAN, lấy sức mạnh tập thể và yêu cầu các bên tuân thủ cơ chế,
quy phạm liên quan để bảo vệ lợi ích an ninh của mình, đề phòng sự tấn công của
các nước xung quanh hoặc nước lớn khác. Trong tranh chấp Biển Đông, Lào yêu cầu
các bên giải quyết hòa bình các tranh chấp: một mặt lo ngại xung đột và chiến
tranh đe dọa ổn định và phát triển khu vực sẽ ảnh hưởng đến lợi ích căn bản của
nước này; mặt khác lo sợ hiệu ứng liên quan mang tính tiêu cực của con đường lấy
phương thức chiến tranh để giải quyết đối với an ninh sau này của Lào. Đồng thời,
Lào hy vọng các bên tuân thủ nghiêm ngặt luật pháp quốc tế và DOC, cũng lo ngại
các cơ chế và quy phạm tương ứng bị phá hoại, từ đó làm xấu đi tiến trình quy
phạm của khu vực, xuất hiện hiện tượng đi ngược lại trào lưu chung của xã hội,
làm cho hiện tượng sùng bái sử dụng vũ lực một cách tùy tiện và coi thường cơ
chế quốc tế trở nên phổ biến. Cuối cùng đe dọa đến an ninh căn bản của các nước
nhỏ trong khu vực trong đó có Lào.
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét