Home » biendao
Thứ Năm, 7 tháng 2, 2019
Chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc và vấn đề Biển Đông (phần 2)
Chủ nghĩa dân tộc và chính sách đối
ngoại
Sự tương tác qua lại giữa chủ nghĩa
dân tộc và các chủ trương đối ngoại luôn là vấn đề gây tranh cãi lâu nay trong
giới chuyên gia về Trung Quốc. Câu hỏi đó là liệu các cuộc biểu tình mang màu sắc
chủ nghĩa dân tộc đối với các vấn đề đối ngoại là do chính phủ nuôi dưỡng, khuyến
khích hay đó là những hiện tượng mang tính bột phát, chủ yếu là thể hiện quan
điểm của đại đa số quần chúng với các diễn biến đối ngoại? Trong bối cảnh chủ
nghĩa quốc tế vô sản, chủ nghĩa dân tộc bị xói mòn, chủ nghĩa dân tộc được coi
là hệ tư tưởng (ideology) quan trọng có ảnh hưởng đến quá trình hoạch định và
triển khai chính sách đối ngoại của Trung Quốc.
Mối quan hệ giữa chủ nghĩa dân tộc và
chính sách đối ngoại thực sự phức tạp với nhiều cấp độ phân tích từ dư luận, mối
quan hệ giữa quần chúng và chính quyền và tính toán của giới hoạch định chính
sách về lợi ích quốc gia – dân tộc. Theo chiều thứ nhất, chủ nghĩa dân tộc được
coi là một biến độc lập định hình, thúc đẩy chính sách đối ngoại. Ở góc độ này,
chính quyền Trung Quốc buộc phải hành động theo ý chí của người dân. Theo chiều
thứ hai, chủ nghĩa dân tộc là kết quả của chính sách đối ngoại, hay cách thức
chính phủ Trung Quốc ứng xử với các hành vi được coi là xâm phạm lợi ích và xúc
phạm Trung Quốc. Dù ở góc độ nào, mối quan hệ giữa chủ nghĩa dân tộc và chính
sách đối ngoại được cho là có tính tương tác (interactive), thúc đẩy lẫn nhau.
Đối với câu hỏi gây tranh cãi nói
trên, một số nghiên cứu nghiêng về khả năng chính phủ Trung Quốc có thể định
hình và khai thác chủ nghĩa dân tộc nhằm phục vụ các mục tiêu đối ngoại. Giả định
này được đưa ra trên cơ sở Trung Quốc kiểm soát được báo chí, truyền thông, và
trên thực tế có thể chuyển hướng hoặc kiềm chế các trào lưu chủ nghĩa dân tộc
khá nhanh khi tình hình thay đổi. Điển hình là các trường hợp biểu tình phản đối
sự kiện Mỹ ném bom Đại sứ quán của Trung Quốc tại Belgrade, làn sóng phản đối
lãnh đạo Nhật Bản thăm đền Yasukuni. Lập luận cho rằng chính phủ Trung Quốc buộc
phải “cưỡi lên lưng cọp” tức chủ nghĩa dân tộc tỏ ra không đứng vững. Tuy
nhiên, lãnh đạo Trung Quốc cũng ý thức đầy đủ rằng chủ nghĩa dân tộc là con dao
hai lưỡi.Một khi bùng nổ, tính bài ngoại của chủ nghĩa dân tộc có thể gây ra hệ
quả nghiêm trọng, khiến chính phủ phải đối mặt với cả thách thức trong nước và
quốc tế như trường hợp biểu tình, đập phá liên quan đến tranh chấp chủ quyền về
quần đảo Senkaku/Điếu Ngư năm 2010 và 2012. Trước đó,trong trường hợp cuộc khủng
hoảng Senkaku/Điếu Ngư năm 1990 và 1996, Trung Quốc đã phải quyết định kiềm chế
tâm lý dân tộc trong vấn đề lãnh thổ để tối đa hóa cơ hội tiếp cận các thị trường
quốc tế vì mục tiêu phát triển.
Chủ nghĩa dân tộc và chính sách Biển
Đông của Trung Quốc: “Cưỡi lên lưng hổ” hay ra roi để doạ hổ?
Đối với các tranh chấp trên biển, nhiều
bằng chứng cho thấy chủ nghĩa dân tộc có thể không phải là động lực quan trọng
thúc đẩy chính sách quyết đoán của Trung Quốc trong những năm qua. Một số nhân
tố khác cũng có thể đóng vai trò định hình chính sách biển của Trung Quốc như:
i) nhu cầu về tài nguyên, năng lượng và nguồn cá, ii) tính toán địa chiến lược
của lãnh đạo Trung Quốc, iii) lợi ích nhóm của lực lượng quân đội, chấp pháp
cũng như các địa phương; iv) mối đe doạ từ các cường quốc biển phương Tây;
viii) sự tự tin của Trung Quốc tăng lên khi năng lực hải quân của nước này ngày
càng lớn mạnh.
Đáng chú ý, tại buổi tọa đàm tại Học
viện Ngoại giao, TS. Andrew Chubb (Đại học Columbia, Mỹ) cung cấp thêm luận chứng
về việc chính phủ Trung Quốc dần nhận ra dư luận và chủ nghĩa dân tộc có thể là
công cụ răn đe hiệu quả để ngăn chặn các quốc gia khác thách thức ý chí của
Trung Quốc trong hồ sơ Biển Đông. TS. Chubb giới thiệu khái niệm “răn đe qua quần
chúng” (grassroot deterrence) để nhấn mạnh mối tương tác giữa quốc gia và xã hội
trong đó chính phủ chủ động sử dụng chủ nghĩa dân tộc và dư luận như là một
công cụ chính sách. Nói cách khác, người dân thay vì là đối tượng ảnh hưởng đến
chính sách lại trở thành đối tượng bị kiểm soát và điều khiển thông qua truyền
thông đại chúng và mạng Internet. Trung Quốc không phải cưỡi lên lưng hổ mà có
khả năng điều khiển được “con hổ dư luận”.
Chính sách “răn đe qua dư luận” không
phải tự nhiên mà có. Đó là kết quả từ quá trình đúc rút thực tiễn 10 năm triển
khai chính sách tại Biển Đông. Trước năm 2009, không tồn tại mối liên hệ nhân
quả rõ ràng giữa chính sách và dư luận về vấn đề Biển Đông. Trung Quốc không
công khai thông tin về các kế hoạch trên biển và cũng chưa ý thức được mức độ ảnh
hưởng của các hoạt động này đối với dư luận. Trong giai đoạn 2009 – 2011, sự
tương tác giữa chủ nghĩa dân tộc và chính sách diễn biến phức tạp hơn trong đó
chính sách quyết đoán của Trung Quốc phần nào thúc đẩy tâm lý dân tộc nhưng
không có dấu hiệu chính quyền Trung Quốc chủ động kích động dư luận.
Từ năm 2011 đến nay, tuy chưa thực sự
phổ biến nhưng Trung Quốc dần học cách điều khiển dư luận phục vụ các hoạt động
đối ngoại. Theo TS. Chubb, dư luận Trung Quốc quan tâm hơn tới các diễn biến
trên biển khi chính phủ Trung Quốc (người phát ngôn Bộ Ngoại giao) trả lời báo
chí nước ngoài về các vấn đề liên quan. Theo đó, lãnh đạo Trung Quốc phải cân
nhắc mức độ thông tin và tuyên truyền để tạo hiệu ứng cần thiết cho các hoạt động
ngoại giao.
Khủng hoảng Scarborough năm 2012 được
coi là trường hợp nghiên cứu điển hình minh hoạ phương thức Trung Quốc sử dụng
dư luận để gây sức ép lên Philippines, một đồng minh của Mỹ. Trung Quốc bắt đầu
gây áp lực bằng các biện pháp trừng phạt ngầm. Tuy nhiên, dư luận nóng lên với
việc chính quyền Trung Quốc từng bước leo thang đe doạ: (i) Thứ trưởng Ngoại
giao Trung Quốc Phó Oánh đưa ra tuyên bố “chuẩn bị mọi khả năng” để đối phó với
các bước đi tiếp theo của Philippines; (ii) Thời báo Hoàn cầu xuất bản bài báo
với tiêu đề “Hoà bình là phép màu nếu các hoạt động khiêu khích tiếp tục”;
(iii) các dư luận viên đăng nhiều bình luận có tính kích động; (iv) phát ngôn
viên PLA đưa ra các bình luận cứng rắn, truyền tải ngầm các thông điệp có tính
đe dọa và thể hiện ý chí của dư luận. Khi Philippines xuống thang, Trung Quốc
chủ động chuyển hướng hoàn toàn dòng dư luận. Thời báo Hoàn cầu có bài đăng cho
rằng vấn đề Scarborough không còn đáng lo ngại.
Ngược lại, trong vụ HD981 năm 2014,
Trung Quốc lại hạn chế sử dụng dư luận chống lại Việt Nam. TS. Andrew Chubb nhận
định sự phản kháng mạnh mẽ của người dân Việt Nam có thể đã khiến Trung Quốc lo
sợ tình hình vượt khỏi tầm kiểm soát. Tâm lý dân tộc rất mạnh ở Việt Nam tạo hiệu
ứng răn đe đáng kể đối với các hành vi được coi là xâm phạm Việt Nam. Một số
nhà phân tích cũng cho rằng Trung Quốc nhận ra các hành động ngày càng hung
hăng trong vụ HD-981 khiến nước này phải trả giá ngoại giao quá cao. Theo đó,
Trung Quốc bắt đầu chuyển hướng sang hình thức khẳng định yêu sách lãnh thổ ít
tạo ra các phản ứng cực đoan hơn như bồi đắp và xây dựng công trình trên các thực
thể tranh chấp gần Philippines. Sự chuyển đổi về mặt chiến thuật này tỏ ra hiệu
quả. Dù phản đối hoạt động bồi đắp của Trung Quốc trên bãi Vành Khăn, hoạt động
này không leo thang tới mức biểu tình bạo lực. Hai trường hợp điển hình trên
cho thấy, chính phủ Trung Quốc có cân nhắc, tính toán kỹ lưỡng kỹ việc sử dụng,
định hướng dư luận để phục vụ mục tiêu đối ngoại chứ không bị thúc đẩy bởi dư
luận, quần chúng.
Chính sách sử dụng dư luận của Trung
Quốc được ví như hoạt động “điều tiết dòng nước từ đập thuỷ điện”. Chính phủ
Trung Quốc có thể mở van cho phép dòng dư luận chảy đến một vấn đề cụ thể nhưng
cũng có thể khoá van để giảm sự chú ý của nhân dân khi đã đạt được mục tiêu. Ba
kênhchính Trung Quốc sử dụng để điều tiết dư luận gồm: (i) sử dụng các kênh
thông tin chính thức như người phát ngôn của Bộ Ngoại giao để kích thích sự
quan tâm đối với một vấn đề cụ thể; (ii) sử dụng kênh truyền thông bán chính thức
cổ vũ các quan điểm cứng rắn (hard-line commentators), ví dụ rõ nhất là Thời
báo Hoàn cầu; và (iii) sử dụng đội ngũ dư luận viên trên mạng và quản lý các
nhà cung cấp dịch vụ Internet.
Có thể thấy, các kênh Trung Quốc huy
động phần lớn thông qua sự hỗ trợ của Internet. Trên thực tế, Internet có tác động
hai chiều với dư luận Trung Quốc. Một mặt, Internet làm suy yếu khả năng chính
phủ Trung Quốc định hình sự diễn giải của công chúng về các sự kiện bên ngoài.
Bởi lẽ quan điểm của công chúng dần trở nên độc lập hơn với sự hỗ trợ của
Internet và các biện pháp kiểm duyệt của chính phủ Trung Quốc không thể chặn đứng
hoàn toàn dòng dư luận trong nước. Tuy vậy, mặt khác, chính phủ Trung Quốc vẫn
có năng lực tác động mạnh mẽ, thậm chí quyết định mức độ quan tâm và phản ứng của
dư luận bởi công chúng không được tiếp xúc trực tiếp với các sự kiện này mà phụ
thuộc vào thông tin truyền thông. Trung Quốc được coi là một trong các quốc gia
kiểm soát Internet chặt chẽ nhất.
![](http://4.bp.blogspot.com/-JE_IPFlB95A/T2xOXxddz4I/AAAAAAAAA2I/sYgUF3LxUdw/s1600/tinkhac.jpg)
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét